Hotline: 024.62511017

024.62511081

  Trang chủ   Sản phẩm   Phần mềm Dành cho nhà trường   Phần mềm Hỗ trợ học tập   Kho phần mềm   Liên hệ   Đăng nhập | Đăng ký

Tìm kiếm

School@net
 
Xem bài viết theo các chủ đề hiện có
  • Hoạt động của công ty (726 bài viết)
  • Hỗ trợ khách hàng (498 bài viết)
  • Thông tin tuyển dụng (57 bài viết)
  • Thông tin khuyến mại (80 bài viết)
  • Sản phẩm mới (216 bài viết)
  • Dành cho Giáo viên (549 bài viết)
  • Lập trình Scratch (3 bài viết)
  • Mô hình & Giải pháp (156 bài viết)
  • IQB và mô hình Ngân hàng đề kiểm tra (127 bài viết)
  • TKB và bài toán xếp Thời khóa biểu (242 bài viết)
  • Học tiếng Việt (183 bài viết)
  • Download - Archive- Update (289 bài viết)
  • Các Website hữu ích (70 bài viết)
  • Cùng học (92 bài viết)
  • Learning Math: Tin học hỗ trợ học Toán trong nhà trường (78 bài viết)
  • School@net 15 năm (154 bài viết)
  • Mỗi ngày một phần mềm (7 bài viết)
  • Dành cho cha mẹ học sinh (124 bài viết)
  • Khám phá phần mềm (122 bài viết)
  • GeoMath: Giải pháp hỗ trợ học dạy môn Toán trong trường phổ thông (36 bài viết)
  • Phần mềm cho em (13 bài viết)
  • ĐỐ VUI - THƯ GIÃN (363 bài viết)
  • Các vấn đề giáo dục (1210 bài viết)
  • Bài học trực tuyến (1037 bài viết)
  • Hoàng Sa - Trường Sa (17 bài viết)
  • Vui học đường (275 bài viết)
  • Tin học và Toán học (220 bài viết)
  • Truyện cổ tích - Truyện thiếu nhi (180 bài viết)
  • Việt Nam - 4000 năm lịch sử (97 bài viết)
  • Xem toàn bộ bài viết (8223 bài viết)
  •  
    Đăng nhập/Đăng ký
    Bí danh
    Mật khẩu
    Mã kiểm traMã kiểm tra
    Lặp lại mã kiểm tra
    Ghi nhớ
     
    Quên mật khẩu | Đăng ký mới
     
    Thành viên có mặt
    Khách: 6
    Thành viên: 0
    Tổng cộng: 6
     
    Số người truy cập
    Hiện đã có 89520166 lượt người đến thăm trang Web của chúng tôi.

    Đại học tư thục: Tự chủ và trách nhiệm xã hội ra sao?

    Ngày gửi bài: 09/02/2011
    Số lượt đọc: 2192

    Ở một góc độ nhất định, các vấn đề về tự chủ và trách nhiệm xã hội thường được cho là phát huy rõ nét hơn tại các trường tư, khi nhìn vào chủ sở hữu, vào cơ cấu tổ chức cũng như cơ chế vận hành của trường.

    Có thể nói các từ "tự chủ" và "trách nhiệm xã hội" là những khái niệm luôn xuất hiện trong các cuộc tranh luận, hay các nghiên cứu trong lĩnh vực đào tạo. Vẫn biết mọi sự so sánh đều khập khiễng, nên câu hỏi đặt ra trong khuôn khổ bài viết sẽ chỉ xem xét từ góc độ khu vực đại học tư thục, nơi người viết bài này có những trải nghiệm nhất định.



    Vai trò Nhà nước- Tư nhân trong đào tạo Đại học

    Hiến pháp Việt Nam ngay từ buổi sơ khai, năm 1946 sau khi Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ và lập ra một nền dân chủ cộng hòa, đã nêu rõ: "Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ trợ giúp. Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình nhà nước" (Quốc hội, 1946: 10-11). Dường như chủ trương xã hội hóa giáo dục với "chính sách mở" cho sự phát triển của các trường tư trong hệ thống giáo dục đã định hình từ đây.

    Trong xu thế toàn cầu hóa và nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, xã hội hóa giáo dục nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực từ các khu vực kinh tế khác nhau phục vụ sự nghiệp giáo dục và đào tạo càng trở nên tất yếu. Cụ thể, một loạt các trường tư thục, trong đó có các trường đại học đã được thành lập và đi vào họat động từ đầu những năm 90 đến nay.

    Ở một góc độ nhất định, các vấn đề về tự chủ và trách nhiệm xã hội thường được cho là phát huy rõ nét hơn tại các trường tư, khi nhìn vào chủ sở hữu, vào cơ cấu tổ chức cũng như cơ chế vận hành của trường. Phải chăng chủ sở hữu là các cá nhân nên các cơ sở đào tạo này có toàn quyền quyết định từ quản trị (sứ mệnh, mục tiêu, các quy chế điều lệ), đến vận hành (nhân sự, tài chính, và các họat động liên quan khác).

    Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN của Việt Nam, có một đặc trưng rõ nét cần làm rõ ở đây: Có quan niệm các trường đại học là các "doanh nghiệp đặc biệt", sản xuất ra loại hàng hóa đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, có ý nghĩa quyết định đối với việc phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Vì thế, các trường đại học cũng như các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường cũng phải được tự chủ trong "sản xuất" và chịu trách nhiệm xã hội về "sản phẩm" của mình.

    Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của "sản phẩm", nhất là giá trị xã hội to lớn của nó nên các bảo đảm pháp luật về quản lý cũng có những nét khác biệt. Ví như quyền tự chủ càng cao thì tính chịu trách nhiệm xã hội, sự đòi hỏi của xã hội đối với các trường càng lớn. Do vậy, việc ban hành các quy định của pháp luật và thực hiện các quy định đó đối với các trường đại học là một đặc trưng có tính quá độ về quản lý các trường đại học, bao gồm cả trường công lập và trường tư thục.

    Xã hội hóa dịch vụ công ở mọi quốc gia trên thế giới đều cho thấy vai trò chủ đạo của Nhà nước, được thực hiện thông qua tăng đầu tư từ ngân sách, đi đôi với phát huy các khả năng đầu tư, đóng góp kinh phí trong xã hội, hoàn thiện thể chế và đổi mới quản lý vĩ mô. Nếu theo cơ chế phi lợi nhuận, ngoài phần được dùng để bảo đảm lợi ích hợp lý của nhà đầu tư, phần để tham gia thực hiện các chính sách đảm bảo công bằng xã hội, còn lại phần lớn lợi nhuận được dùng để đầu tư phát triển trường theo mục tiêu đặt ra của trường. Theo cơ chế vì lợi nhuận thì lợi nhuận có thể được chia cho các cá nhân và phải chịu thuế.

    Cho dù có những khác biệt, bản chất của cả 2 cơ chế có 1 điểm chung, đó là: Hoạt động đầu tư phải tạo ra lợi nhuận để duy trì sự tồn tại và phát triển nhà trường. Và mục tiêu quan trọng nhất của mọi trường đại học là đào tạo được những sinh viên có chất lượng theo đúng tiêu chí đầu ra.

    Như thế có thể thấy quan điểm cho rằng: "Đúng nghĩa xã hội hóa là khuyến khích loại trường không vì lợi nhuận. Nhà nước chỉ đầu tư những cơ sở không vì lợi nhuận. Hơn nữa, khi xem xét đặc thù của dịch vụ và sản phẩm giáo dục đại học, những giá trị xã hội mà giáo dục đại học đem lại cũng như vai trò điều tiết của Nhà nước nhằm đảm bảo công bằng trong tiếp cận giáo dục đại học, vai trò đầu tư của Nhà nước đối với các loại hình trường đại học càng thể hiện rõ nét. Vấn đề đặt ra tiếp theo sẽ là đầu tư ở mức nào đối với mỗi loại hình trường vì lợi nhuận, không vì lợi nhuận trong giai đoạn hiện nay?

    Chủ sở hữu và nhà giáo dục

    Đối với các nước có hệ thống giáo dục đại học phát triển hàng đầu thế giới, ở cả 2 mô hình - đại học công (chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống giáo dục đại học Anh, Úc, các nước châu Âu) và đại học tư (Mỹ), có thể thấy 1 điểm chung trong vận hành ở cả 2 hệ thống này: Các trường đều vận hành trong cơ chế chung là kinh tế thị trường, do đó tính hiệu quả, tính kinh tế được đặt lên hàng đầu.

    Cho dù là sở hữu tư nhân hay nhà nước, các trường đều là những thực thể pháp lý hoạt động tách biệt, độc lập theo quy định chung và pháp luật của nhà nước, có hội đồng trường với những đại diện thực hiện quyền sở hữu đó, có cơ chế báo cáo rõ ràng.

    Các trường công thường có đại diện giảng viên trong các hội đồng quản lý này (điều này cũng tương tự như đối với trường tư, nhưng quy định về đại diện bắt buộc chặt chẽ hơn trong các trường công). Trong cả 2 mô hình, các nhà giáo dục đều là những người làm công. Như thế có sự phân định vai trò của chủ sở hữu và các nhà giáo dục, để mỗi bên hoàn thành đúng quyền lợi và trách nhiệm của mình.

    Dù là chủ sở hữu nhà nước hay chủ sở hữu tư nhân đều có chung vai trò ra quyết định về chính sách. Và 1 trong các nhân tố quan trọng, tác động mạnh nhất giúp cho những nỗ lực của những người đưa ra quyết sách chính là giảng viên và việc giảng dạy của họ. Do đó đội ngũ giảng viên và chất lượng giảng dạy là phương tiện hữu hiệu nhất để bảo đảm giáo dục đại học chất lượng.

    Như vậy nếu xem xét mối quan hệ này trong điều kiện đổi mới giáo dục hiện nay, các cơ sở giáo dục, các nhà giáo dục là những chủ thể của quá trình đổi mới với vai trò tự chủ, đề ra các sáng kiến và nhận hỗ trợ từ chủ sở hữu trong quá trình triển khai các sáng kiến. Đòn bẩy thay đổi quan trọng là đội ngũ và chất lượng giảng dạy trong giáo dục đại học, các nguồn lực đầu tư của chủ sở hữu do đó cần tập trung vào mục tiêu này.

    Có thể thấy bản chất quan hệ giữa chủ sở hữu và nhà giáo dục đều nhằm tạo ra "lợi nhuận" tối cao của họat động đào tạo, đó chính là chất lượng của sản phẩm đào tạo- là sinh viên. Tuy nhiên thực tế cho thấy, các mục tiêu ngắn hạn trong một cơ sở giáo dục có thể làm nảy sinh mâu thuẫn giữa chủ sở hữu và nhà giáo dục, khi một bên được cho là chạy theo lợi nhuận (kinh tế), một bên luôn đòi hỏi nhiều nguồn lực đầu tư hơn nữa, nhiều tự do học thuật (Blackmore, 2009) để tăng cường chất lượng dạy và học. Làm thế nào điều hòa quan hệ giữa chủ sở hữu và nhà giáo dục luôn là vấn đề đặt ra thường trực, thể hiện ở sự đấu tranh về tính tự chủ.

    Do vậy, tự chủ không chỉ đặt ra ở cấp độ quan hệ giữa tổ chức với tổ chức (các cơ sở giáo dục và nhà quản lý), mà còn ở cả cấp độ cá nhân (các nhà giáo dục) với cá nhân (các chủ sở hữu là đại diện ra quyết sách của các cơ sở giáo dục).

    Tự chủ và trách nhiệm xã hội

    Như vậy có thể thấy từ xa xưa quyền tự chủ hay tự quản lý là thành tố cơ bản của tư tưởng giáo dục đại học. Ngày nay song hành với quyền tự chủ đó, các trường đại học còn có khái niệm "trách nhiệm xã hội". Khái niệm "chịu trách nhiệm" đã và đang được quy về chất lượng dạy và học, hay nói cách khác, là sự "chịu trách nhiệm" của các nhà giáo dục/các giảng viên.

    Ở Việt Nam trong thời gian qua, cùng với tiến trình đổi mới giáo dục đại học, để phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế, trong giáo dục và đào tạo đã có 2 khái niệm được sử dụng và được đưa vào hệ thống thuật ngữ quản lý là "quyền tự chủ" (autonomy) và "trách nhiệm" (accountability). Khái niệm quyền tự chủ ở đây nên được hiểu là quyền tự chịu trách nhiệm cao nhất về quản lý của các cơ sở giáo dục đại học, là "tự điều hành, quản lý mọi công việc của mình, ko bị ai chi phối". Quyền tự chủ của các trường đại học, cao đẳng ở nước ta theo cách hiểu này đã được ghi nhận trong các văn bản pháp luật hiện hành của Nhà nước, điển hình là trong Luật Giáo dục năm 2005 (điều 60) và Điều lệ trường Đại học (điều 10).

    "Trách nhiệm xã hội" cho đến nay vẫn là khái niệm mới và có nhiều hướng tiếp cận khác nhau trong thuật ngữ quản lý giáo dục Đại học. Trách nhiệm xã hội là trách nhiệm liên quan trước hết tới những người có thẩm quyền và quy định họ cần thực thi nhiệm vụ của họ như thế nào. Là trách nhiệm sẵn sàng giải thích các quyết định có kèm theo bằng chứng khi sinh viên, đồng nghiệp hoặc bất kỳ ai hỏi. Là trách nhiệm của những người được giao quyền lực trước một cá nhân hoặc một nhóm người nào đó.

    Như vậy, ở các nước trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay, "trách nhiệm xã hội" không phải là một quyền mà là "trách nhiệm" của các trường đại học trước cơ quan quản lý cấp trên và trước sinh viên, phụ huynh, cơ sở lao động sử dụng sinh viên tốt nghiệp, v.v..., nói rộng ra là trước toàn thể xã hội. Đó chính là trách nhiệm của các trường là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước, xứng đáng với sự đầu tư quan tâm của Nhà nước, sự đóng góp của nhân dân và phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước và của xã hội để hoàn thành trách nhiệm đó.

    Mối quan hệ giữa quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội là 2 mặt không thể tách rời trong mọi hoạt động của một nhà trường, tự chủ chủ yếu để bảo đảm hiệu quả và hiệu suất cao, trong khi trách nhiệm xã hội là để bảo đảm chất lượng và công bằng xã hội trong đào tạo.

    Ở cấp độ cá nhân, kinh nghiệm quốc tế về quyền tự chủ cho thấy, về mặt lý luận, các học giả nước ngoài đã phân biệt rõ đặc điểm và nội dung của quyền tự chủ trên cơ sở so sánh với các khái niệm có liên quan: Thứ nhất, giữa tự chủ (autonomy) với tự do học thuật (academic freedom). Tự do học thuật theo quan niệm của các học giả là quyền tự do theo đuổi chân lý trong họat động giảng dạy và nghiên cứu, là quyền của các cá nhân học giả, song nó tạo điều kiện cho việc thực hiện quyền tự chủ của các trường đại học.

    Tuy nhiên quyền tự chủ của các trường đại học cũng có thể đe dọa đến quyền tự do học thuật của các học giả, nói cách khác, giữa tự chủ của trường đại học và tự do học thuật của các học giả không phải lúc nào cũng là quan hệ đồng thuận. Điều này giải thích mối quan hệ giữa chủ sở hữu và nhà giáo dục như đã nêu trên. Thứ hai, quyền tự chủ được phân thành 2 loại- tự chủ về xác định mục tiêu, chương trình và tự chủ về quyết định phương tiện thực hiện muc tiêu và chương trình đó.

    Các quy định của một số nước phát triển đã xác định 6 lĩnh vực hoạt động của trường đại học nơi có tác động của quyền tự chủ: 1/Tự chủ trong quản lý nhà trường. 2/ Tự chủ trong phân bổ nguồn lực cho các hoạt động mà nhà trường xác định. 3/ Tự chủ trong tuyển dụng cán bộ và xác định điều kiện làm việc của họ. 4/ Tự chủ trong tuyển sinh. 5/Tự chủ trong xây dựng chương trình và giảng dạy. 6/ Tự chủ trong xác định các chuẩn mực và phương pháp đánh giá.

    Tựu trung lại, có một điểm thống nhất mà các chuyên gia quốc tế về quản lý giáo dục đại học đã khẳng định rằng quyền tự chủ là yêu cầu không thể thiếu được đối với vai trò và hoạt động của một trường đại học. Tất nhiên, cùng với quyền tự chủ của mình thì các trường đại học cũng phải là đối tượng chịu sự kiểm soát ở các mức độ khác nhau từ bên ngoài.

    Vấn đề đặt ra cấp bách hiện nay là quản trị đại học theo hướng giao quyền tự chủ cho các cơ sở đại học trong điều kiện có hội đồng trường đúng nghĩa và công khai minh bạch. Đồng thời là vấn đề cơ chế. Cơ chế có nhiều mảng nhưng trước hết cần minh bạch hóa việc cung cấp ngân sách Nhà nước và cơ chế "vì lợi nhuận", "không vì lợi nhuận" trong khu vực ngoài công lập. Trên hết, mô hình trường tư vì lợi nhuận hay phi lợi nhuận đều phải có mục tiêu lợi nhuận chính là thành công của sinh viên.


    ---------

    Tài liệu tham khảo:

    Blackmore, J. (2009) Academic pedagogies, quality logics and performative universities: evaluating teaching and what students want. Studies in Higher Education, 34 (8): 857-872.

    Bộ GD và ĐT (2005) Hệ thống giáo dục và Luật Giáo dục một số nước trên thế giới. Nhà xuất bản thế giới.

    Hattie, J. (1999) Influences on student learning. University of Auckland.

    Nguyễn, Đ. C. (2009) Hoàn thiện pháp luật về quản lý các trường đại học, cao đẳng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học Việt Nam hiện nay.

    Quốc hội Việt Nam. Hiến pháp năm 1946. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.

    Waldrop, M. Mitchell (1993): Phức hợp: Khoa học xuất hiện theo yêu cầu và biến động. London, Viking.

    Tác giả: Lê Cẩm Huyền

    Schoolnet (Theo tuanvietnam.vietnamnet.vn)



     Bản để in  Lưu dạng file  Gửi tin qua email


    Những bài viết khác:



    Lên đầu trang

     
    CÔNG TY CÔNG NGHỆ TIN HỌC NHÀ TRƯỜNG
     
    Phòng 804 - Nhà 17T1 - Khu Trung Hoà Nhân Chính - Quận Cầu Giấy - Hà Nội
    Phone: 024.62511017 - 024.62511081
    Email: kinhdoanh@schoolnet.vn


    Bản quyền thông tin trên trang điện tử này thuộc về công ty School@net
    Ghi rõ nguồn www.vnschool.net khi bạn phát hành lại thông tin từ website này
    Site xây dựng trên cơ sở hệ thống NukeViet - phát triển từ PHP-Nuke, lưu hành theo giấy phép của GNU/GPL.