Hotline: 024.62511017

024.62511081

  Trang chủ   Sản phẩm   Phần mềm Dành cho nhà trường   Phần mềm Hỗ trợ học tập   Kho phần mềm   Liên hệ   Đăng nhập | Đăng ký

Tìm kiếm

School@net
 
Xem bài viết theo các chủ đề hiện có
  • Hoạt động của công ty (726 bài viết)
  • Hỗ trợ khách hàng (498 bài viết)
  • Thông tin tuyển dụng (57 bài viết)
  • Thông tin khuyến mại (80 bài viết)
  • Sản phẩm mới (216 bài viết)
  • Dành cho Giáo viên (549 bài viết)
  • Lập trình Scratch (3 bài viết)
  • Mô hình & Giải pháp (156 bài viết)
  • IQB và mô hình Ngân hàng đề kiểm tra (127 bài viết)
  • TKB và bài toán xếp Thời khóa biểu (242 bài viết)
  • Học tiếng Việt (183 bài viết)
  • Download - Archive- Update (289 bài viết)
  • Các Website hữu ích (70 bài viết)
  • Cùng học (92 bài viết)
  • Learning Math: Tin học hỗ trợ học Toán trong nhà trường (78 bài viết)
  • School@net 15 năm (154 bài viết)
  • Mỗi ngày một phần mềm (7 bài viết)
  • Dành cho cha mẹ học sinh (124 bài viết)
  • Khám phá phần mềm (122 bài viết)
  • GeoMath: Giải pháp hỗ trợ học dạy môn Toán trong trường phổ thông (36 bài viết)
  • Phần mềm cho em (13 bài viết)
  • ĐỐ VUI - THƯ GIÃN (363 bài viết)
  • Các vấn đề giáo dục (1210 bài viết)
  • Bài học trực tuyến (1037 bài viết)
  • Hoàng Sa - Trường Sa (17 bài viết)
  • Vui học đường (275 bài viết)
  • Tin học và Toán học (220 bài viết)
  • Truyện cổ tích - Truyện thiếu nhi (180 bài viết)
  • Việt Nam - 4000 năm lịch sử (97 bài viết)
  • Xem toàn bộ bài viết (8223 bài viết)
  •  
    Đăng nhập/Đăng ký
    Bí danh
    Mật khẩu
    Mã kiểm traMã kiểm tra
    Lặp lại mã kiểm tra
    Ghi nhớ
     
    Quên mật khẩu | Đăng ký mới
     
    Thành viên có mặt
    Khách: 11
    Thành viên: 0
    Tổng cộng: 11
     
    Số người truy cập
    Hiện đã có 89511270 lượt người đến thăm trang Web của chúng tôi.

    Khoa học Việt Nam - tìm bảng đề tên

    Ngày gửi bài: 06/01/2011
    Số lượt đọc: 2212

    Giáo sư Phạm Duy Hiển - nguyên viện trưởng Viện Hạt nhân Đà Lạt - trao đổi với TTCT về sự hòa nhập và tìm chỗ đứng của giới khoa học VN trên “mặt tiền” khoa học thế giới.

    Công bố hay là chết?

    * Thưa giáo sư, nhiều năm qua ông nói khá nhiều đến tầm quan trọng của việc viết và công bố các bài báo khoa học ra quốc tế. Nghiên cứu khoa học có nhất thiết phải có công bố quốc tế?

    - Nghiên cứu khoa học là tìm ra những cái mới, mới trên thế giới chứ không chỉ ở VN. Nhà khoa học trước khi nghiên cứu vấn đề gì đều phải hỏi: ta định tìm cái gì mới ở đây? Công bố quốc tế là đưa nghiên cứu của mình ra cho mọi người xem, qua đó những đồng nghiệp quốc tế sẽ đánh giá anh có gì mới, sáng tạo.

    * Có người hỏi “công bố trong nước cũng được chứ sao?”. Ta nên nhớ rằng hiện chưa có tạp chí khoa học nào của VN lọt vào danh sách gần mười nghìn tạp chí khoa học quốc tế có uy tín được đưa vào cơ sở dữ liệu của Viện Thông tin khoa học quốc tế (ISI).

    Lại có người hỏi “công bố quốc tế là chuyện của một số người làm khoa học, tại sao nhà nước lại phải quan tâm?”. Để trả lời câu hỏi này, ta phải nhìn ra các nước, trước hết là trong vùng. Năm 2008, VN công bố được 802 bài trên ISI, nghĩa là 1 triệu dân mới công bố chưa đầy 10 bài, năng suất này tuy có cao hơn Indonesia và Philippines, nhưng lại thấp hơn Thái Lan đến 6 lần, Malaysia 10 lần và thấp hơn Singapore tới... 167 lần.

    Tại sao người Thái, người Mã và nhất là người Singapore lại “phí sức” công bố nhiều như vậy? Vì công bố quốc tế có thể xem như thước đo chất lượng nghiên cứu khoa học, mà đây là hoạt động phản ánh trình độ phát triển của một quốc gia, tương tự bình quân GDP hay các tiêu chí kinh tế - xã hội khác.

    Giữa nghiên cứu khoa học trình độ quốc tế với phát triển kinh tế - xã hội có quan hệ tác động qua lại với nhau. Do đó, nhà nước phải quan tâm đến công bố quốc tế nếu không muốn đất nước mình bị lạc hậu. Công bố quốc tế còn là thước đo hiệu quả đầu tư cho khoa học của một quốc gia.

    * Nhưng nói như giới khoa học và đại học ở các nước “công bố hay là chết” (publish or perish) liệu có quá chăng?

    - Ở đây có cả hai mặt. Ở các trường đại học và viện nghiên cứu trên thế giới, nếu không có công bố quốc tế trong thời gian dài, anh sẽ rất khó chứng minh sự tồn tại của mình. Không có công bố quốc tế trong thời gian dài có nghĩa là không theo kịp trình độ thế giới trong lĩnh vực của mình, vậy làm sao có thể đào tạo được nhân lực trong cuộc hội nhập toàn cầu hiện nay?

    Song nói một cách công bằng, đây là cách làm hành chính, không phải lúc nào cũng đúng. Muốn đánh giá một nhà khoa học phải xem xét những hoạt động học thuật của họ ích lợi như thế nào đối với đất nước. Xem công bố quốc tế là tiêu chí độc tôn để đánh giá, xếp người có mười bài giỏi hơn người có năm bài là cực đoan. Ngược lại, cũng sẽ rất cực đoan và tai hại nếu xem công bố quốc tế là thứ trang sức, không cần thiết.

    * Công bố quốc tế của VN thuộc diện thấp nhất trong khu vực. Theo giáo sư, nguyên nhân có thể nằm ở đâu: do ít tiền, do coi công bố quốc tế là một loại “trang sức” hay do vấn đề nội tại của đội ngũ khoa học?

    - Chúng ta đang ở trình độ phát triển thấp. Đó là lý do bao trùm. Nhưng tự mình cũng làm cho mình thấp. Thứ nhất, giới khoa học trước đây ít quan tâm đến chuyện công bố quốc tế. Có lẽ trong vòng mười năm nay, người ta mới để ý nhiều đến chủ đề này, công bố quốc tế bắt đầu được làm tiêu chí xét duyệt các đề tài nghiên cứu cơ bản, nhiều cơ quan khoa học có chế độ thưởng cho các cán bộ có công bố quốc tế. Nhưng công bố quốc tế lại gần như bị đánh đồng với công bố nội địa khi xét duyệt các chức danh khoa học, đây là chuyện rất không thỏa đáng, cần sớm sửa chữa.

    Tôi cho rằng rất cần tập trung nghiên cứu khoa học nhiều hơn trong các trường đại học. Số lượng công bố quốc tế từ đại học VN chỉ chiếm khoảng 50%, trong khi ở Thái Lan con số này lên đến hơn 90%. Công bố quốc tế từ trường đại học sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên, vì đừng quên rằng nhân lực “thiếu và yếu” là thách thức lớn nhất của VN trong thập kỷ tới.

    Một diện mạo mới sẽ xuất hiện bằng cách xây dựng các nhóm nghiên cứu xuất sắc ở các trường đại học được lãnh đạo bởi các học giả đầu đàn trong nước - những người vẫn được coi là có thẩm quyền nhất về mặt học thuật trong xã hội.

    Đương nhiên các vị này đã có chỗ đứng trên thế giới qua các công bố quốc tế của mình. Thế giới nhìn nền khoa học của ta qua họ. Thế hệ sau phán xét thế hệ này qua họ. Với chính sách cào bằng trong học thuật được hợp thức bằng những quy chế hành chính hóa như hiện nay, chúng ta rất khó tiến xa hơn trong thế giới này.

    * Nói như thế, giáo sư nhận xét ra sao về truyền thống khoa học của VN, sự kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác?

    - Khoa học cũng như phát triển kinh tế - xã hội, đều dựa trên quy luật “tích lũy và đầu tư”, ai làm kinh tế đều biết quy luật này. Khoa học muốn phát triển theo quy luật tích lũy và kế thừa mà thế hệ sau lại vứt bỏ những thành quả của thế hệ trước, làm lại từ đầu từ số 0 thì bao giờ chúng ta mới tiến lên được.

    Tôi xin đơn cử một ví dụ. Đội ngũ làm việc tại Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt được xây dựng gần 30 năm qua, có chỗ đứng nhất định trong cộng đồng hạt nhân quốc tế.

    Nhưng khi chuẩn bị làm điện hạt nhân thì đội ngũ ấy lại hầu như đứng ngoài cuộc. Tuy chưa phải là những “người khổng lồ”, nhưng thiết nghĩ cũng nên trèo lên vai họ để dễ thấy hơn những gì đang ở phía trước (cười).

    Tự do và tự trọng dụng

    * Nghiên cứu khoa học bản chất vẫn là tự do trong sáng tạo. Tự do trong khoa học đối với giáo sư có ý nghĩa như thế nào?

    - (Im lặng hồi lâu) Tôi luôn chọn con đường tự do trong tư duy, không lệ thuộc vào một ý niệm, chỉ dẫn của ai. Quyền, tiền và danh (nhất là hư danh) là ba thứ luôn làm ta mất tự do. Nhưng rất khó vượt lên chính mình. Không có tiền lấy đâu ra tự do? Mà nhà khoa học VN muốn có tiền phải có quyền. Nhưng giữ được quyền thì còn tâm trí và thời gian đâu để có thể tự do theo đuổi những đam mê sáng tạo của mình.

    Thậm chí phải có nhiều quyền hơn mới bảo vệ được những thành quả lao động khoa học của mình và tập thể. Cứ thế mà “chiến đấu không ngừng” trên con đường quan lộ, con đường độc đạo đó luôn dẫn ta đi xa khỏi mục tiêu khoa học và thủ tiêu hết các đam mê. Tôi nghiệm thấy đây là một rắc rối lớn trong xã hội chúng ta ngày nay. Chúng ta không có người tài vì như vậy.

    * Vậy đâu là giải pháp cho rắc rối này, thưa giáo sư?

    - Chuyện đáng nói ở ta là không tạo được một môi trường để mọi người tự do theo đuổi những đam mê sáng tạo của mình. Cũng chính vì thiếu môi trường ấy mà chúng ta ngày càng thiếu nhân tài khoa học. Mong đừng hiểu hai chữ tự do mà tôi nói như một đòi hỏi vốn được xem là nhạy cảm, mang màu sắc ý thức hệ. Hoàn toàn không!

    Quan niệm tự do này đơn giản lắm: làm sao nhà khoa học đủ điều kiện (nhất là tiền lương) để sống và tự do theo đuổi những đam mê sáng tạo của mình mà không bị ai cản trở. Muốn vậy, môi trường ấy phải có những nấc thang chuẩn mực khoa học minh bạch để đánh giá con người.

    Môi trường ấy lại phải bảo đảm điều kiện để đội ngũ luôn lớn mạnh về chất lượng và số lượng nhờ biết tích lũy và kế thừa để hướng tới những mục tiêu ngày càng cao cho đất nước. Đương nhiên, không thể thiếu một nhà khoa học đầu đàn, có uy tín, biết “kinh bang tế thế” để tập thể chẳng những không bơ vơ mà còn có chỗ đứng trong xã hội. Chỉ từ một môi trường lành mạnh như vậy người tài mới xuất hiện.

    * Khi nhìn vào đội ngũ khoa học trẻ, giáo sư thấy đâu là những điều đáng khích lệ, đâu là những điểm yếu của họ?

    - Tôi không thích câu hỏi này lắm. Tôi không thích cậy mình già để được quyền phán xét thế hệ trẻ. Vả lại thế hệ trẻ giờ đây có nhiều em rất giỏi, tôi từng ngạc nhiên khi tiếp xúc với họ. Cứ thả họ vào môi trường tự nhiên mà tôi vừa nói trên, các em sẽ lớn lên. Người lớn cứ nói bọn trẻ kém quá, trách chúng ham chơi, không chịu rèn luyện, không theo đuổi con đường khoa học, mới xin vào cơ quan xong là cứ mắt trước mắt sau chuồn sang chỗ khác để có nhiều tiền hơn...

    Trách như vậy là không đúng. Nếu trường đại học, viện nghiên cứu tạo ra được môi trường lành mạnh như tôi nói trên, nếu chúng ta xây dựng được những nhóm nghiên cứu xuất sắc do những nhà khoa học có uy tín đứng đầu, thì dứt khoát sẽ hút giới trẻ vào, nhất là những em giỏi.

    Tôi thấy nhiều người hay than phiền “trí thức VN không được trọng dụng”, hình như có ý trách cứ cấp trên không tham vấn, không bố trí mình vào chỗ này chỗ khác. Tôi nghĩ khác. Tự anh phải biết “dụng” anh, phải “xài” anh đến nơi đến chốn, như thế chính là xã hội đã trọng dụng anh.

    * Xin trân trọng cảm ơn giáo sư.

    CẦM PHAN thực hiện

    Schoolnet (Theo tuoitre.vn)



     Bản để in  Lưu dạng file  Gửi tin qua email


    Những bài viết khác:



    Lên đầu trang

     
    CÔNG TY CÔNG NGHỆ TIN HỌC NHÀ TRƯỜNG
     
    Phòng 804 - Nhà 17T1 - Khu Trung Hoà Nhân Chính - Quận Cầu Giấy - Hà Nội
    Phone: 024.62511017 - 024.62511081
    Email: kinhdoanh@schoolnet.vn


    Bản quyền thông tin trên trang điện tử này thuộc về công ty School@net
    Ghi rõ nguồn www.vnschool.net khi bạn phát hành lại thông tin từ website này
    Site xây dựng trên cơ sở hệ thống NukeViet - phát triển từ PHP-Nuke, lưu hành theo giấy phép của GNU/GPL.