Một trong các nền văn hóa lâu đời nhất sử dụng chữ viết đã phát triển từ vùng thung lũng sông Tigris và Euphrates trong khoảng từ 3500 và 3000 năm trước Công nguyên. Nền văn minh thung lũng Indus và miền bắc Syria ra đời năm 2500 trước Công nguyên. Châu á là châu lục lớn nhất thế giới, nó bao phủ khoảng 30% tổng diện tích đất liền trêntrái đất. Lục địa Châu á dài từ đông sang tây là 9.700 km và từ bắc xuống nam là 6.500 km. Phía bắc lục địa giáp Bắc Băng Dương; phía đông giáp Thái Bình Dương; phía nam giáp ấn Độ Dương; đường biên giới phía tây giáp, với lục địa Châu âu, chạy từ bắc xuống nam dọc theo sườn phía đông dãy núi Ural, con sông Zhem, biển Caspia, thung lũng Kuma-Manych, biển Đen, biển Aegea, biển Địa Trung Hải, kêng đào Suez và biển Đỏ. Bờ biển lục địa Châu á dài 62.750 km. Các hòn đảo Sri Lanka và Đài Loan cùng các quần đảo Indonesia, Philippines và Nhật bản cũng là các phần của lục địa Châu á.
Đất đai
Về mặt địa lý, Châu á là lục địa non trẻ nhất. Lục địa này gồm rất nhiều lớp địa tầng đã tích tụ với số lượng rất lớn theo thời gian và chịu đựng những lần va chạm với các phiến địa tầng khác làm cho đất đai ở các vùng có va chạm được nâng cao lên. Lần va chạm lớn nhất xảy ra giữa phiến địa tầng ấn độ với cạnh phía nam của lục địa cách đây 50 triệu năm đã hình thành nên dãy núi Himalaya và cao nguyên Tây tạng. Độ cao ở lục địa Châu á từ 8.848 m ở đỉnh núi Everest xuống còn 400 m ở biển Chết. Núi non và cao nguyên chiếm hầu hết lãnh thổ lục địa; khoảng 2/3 diện tích đất đai nằm ở độ cao trên 500 m và khoảng 1/5 diện tích lãnh thổ ở độ cao trên 3.000 m. Đỉnh núi cao nhất nằm trên một vùng diện tích 2.200.000 km2 ở vùng Trung á. Một trong những vành đai núi lớn nhất trải rộng từ bán đảo Chukchi ở phía bắc đến dãy núi ở phía nam Siberia. Đồng bằng đất thấp chiếm khoảng 1/4 lãnh thổ Châu á. Các vùng bình nguyên và cao nguyên cũng rất rộng lớn với cao nguyên A rập ở phía tây, cao nguyên Deccan ở phía nam và cao nguyên Indo-Pacific ở phía đông. Trên lục địa cũng có một số vùng sa mạc lớn trong đó sa mạc lớn nhất là sa mạc Thar ở ấn độ và Pakistan, sa mạc Takla Makan ở Trung quốc, sa mạc Rub' al-Khali ở A rập Xê út, sa mạc Gobi ở Mông cổ và Trung quốc. Châu á có các con sông lớn nhất thế giới. Các con sông Euphrates, Tigris, Indus, Ganges, Brahmaputra và Irrawaddy cung cấp nước tưới cho gần một nửa diện tích đất đai trên lục địa. Vùng lòng chảo sông lớn nhất trên lục địa là Tarim ở Trung quốc rộng 951.500 km2, các lòng chảo khác nằm ở Afghanistan, Iran và Jordany. Biển Caspia là vùng biển nội địa lớn nhất thế giới với diện tích là 386.400 km2.
Đất đai ở Châu á có thể chia thành nhiều vùng. Vùng Bắc cực đang trong qua trình hình thành đất dai ban đầu. Lui về phía nam là một vành đai chuyển tiếp với đất đai vùng lãnh nguyên. Vùng rừng nằm ở toàn bộ đới khí hậu cận nhiệt đới. Đất đai ở các vùng rừng và thảo nguyên rất màu mỡ và giàu chất mùn. Đất đai ở các vùng sa mạc và bán sa mạc nghèo chất mùn. Đất màu nâu kim loại ở vùng Địa trung Hải và đất màu vàng đỏ ở các vùng khí hậu cận nhiệt đới gió mùa là các bằng chứng xác đáng về sự tích tụ sắt và nhôm ôxít.
Hệ thực vật ở Châu á rất phong phú với các loài thực vật ở các vùng lãnh nguyên Bắc cực đến các loại thực vật vùng thảo nguyên dọc bờ biển phía bắc và ở Siberia đến thực vật trong rừng mưa nhiệt đới ở phía đông nam. Hệ thực vật ở phía bắc Châu á cũng tương tự như ở Châu âu trong đó có rất nhiều loại có chung nguồn gốc. Vùng lãnh nguyên rộng lớn ở Siberia còn có rất nhiều loại cây có hoa. Phía nam vùng này là các khu rừng trên đầm lầy và các cánh rừng tùng bách. Nam và Đông nam á là nơi có rất nhiều các cánh rừng mưa nhiệt đới gió mùa.. Hệ động vật ở Châu á cũng rất phong phú, trải dài theo vĩ độ và độ cao. Các loài chim di cư, tuần lộc, cáo Bắc cực, thỏ Bắc cực và hải cẩu xuất hiện khắp bờ biển Bắc cực; nai sừng tấm, tuần lộc rừng, gấu nâu, mèo rừng, chồn và thỏ rừng sống rất nhiều trong rừng Taiga; linh dương, cừu hoang và dê là các loài vật đặc trưng của các thảo nguyên và sa mạc Châu á; ...
Dân tộc
Cho đến cuối thế kỷ 20, Châu á là nơi sinh sống của khoảng 3/5 dân số thế giới. Mật độ tăng dân số bình quân là 2%. Với tốc độ tăng này, cho đến năm 2000 Châu á sẽ có 3,7 tỉ người.
Châu á là lục địa có sự phân bố dân cư rất khác biệt. Tât cả vùng Siberia, Trung á và một số vùng ở Đông Nam á có rất ít người sinh sống nhưng tiểu lục địa ấn độ và vùng Đông á lại có mật độ dân số rất cao, chiếm tới 2/3 dân số toàn Châu lục.
Người dân Châu á thường sống bên các thung lũng sông đất đai màu mỡ. Khoảng 70% người dân Châu á tham gia sản xuất nông nghiệp nhưng trong thế kỷ 20 có một xu hướng di cư từ nông thôn ra thành thị rất lớn, xu hướng này đang gây nên rất nhiều khó khăn về hạ tầng cơ sở. Các hệ ngôn ngữ chính ở Châu á là Sino-Tây tạng, Indo-Aryan, Nhật bản, Austronesian, Austro-Asiatic, Semitic, Turkic, Iran và Triều tiên. Vùng Trung và Bắc Siberia cùng vùng Trung á là nơi sinh sống của người Tungusic, Mongol, Paleo-Siberia và Turkic nhưng khi Liên xô cũ và Trung quốc mở rộng vị thế chính trị và kinh tế đến vùng này thì các bộ tộc nhỏ lần lượt xát nhập vào họ. Đông á là vùng có mật độ dân cư cao nhất với ba nhóm dân tộc chính là Trung quốc, Nhật bản và Triều tiên trước đây thuộc ngữ hệ Sino-Tây tạng.
Tiếng Nga và tiếng Trung quốc đang ngày càng lan rông và tiếng Trung quốc là ngôn ngữ có số người dùng lớn nhất thế giới.
Châu á là cái nôi của tât cả các tôn giáo lớn nhất trên thế giới và hàng trăm tôn giáo nhỏ khác. Đạo Hindu là tôn giáo lâu đời nhất và bắt nguồn từ Nam á; đạo Phật xuất hiện trong khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Tây nam á là cái nôi của đạo Do thái, đạo Cơ đốc và đạo Hồi. Đạo Lão và đạo Khổng cũng ra đời trong thế kỷ 6 và 5 trước Công nguyên đã có ảnh hưởng rất mạnh đến văn hóa Trung quốc và các nền văn hóa bắt nguồn từ văn hóa Trung quốc.
Trừ một số nước phát triển như Nhật bản, Israel và hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa, các nước còn lại đều không có hệ thống trựo cấp xã hội hoàn chỉnh. Điều kiện chăm sóc sức khỏe cũng rất nghèo nàn trừ Nhật bản, Israel, Cyprus, Singapore, Hàn quốc, Đài loan, Brunei, Hong Kong và Nga. Các nước còn lại đều thiếu các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng và không có điều kiện tiếp xúc với y học hiện đại. Những khoản đầu tư rất lớn vào y tế ở các nước nhiều dầu mỏ và các nước xã hội chủ nghĩa cũng đang cải thiện đáng kể điều kiện chăm sóc sực khỏe ở đây. Tuổi thọ trung bình ở các nước trải từ 40 đến 70 tuổi.
Kinh tế
Dù có các vùng sa mạc, vùng bằng hà và núi non rộng lớn nhưng khoảng 15% diện tích lục địa có thể dùng cho canh tác. Khoảng 3/4 diện tích đất đó được dùng cho trồng cây lương thực. Khoảng 1/4 lục địa là đồng cỏ và núi thấp là nơi chăn thả khoảng 1/3 tổng đàn gia xúc của thế giới, khoảng 1/4 đàn ngựa và cừu, một nửa đàn lợn và gần 3/4 đàn dê. Diện tích rừng trên lục địa cũng đang giảm sút dù cho các quốc gia đang rất nỗ lực bảo vệ.
Châu á còn rất giàu các nguồn tài nguyên phục vụ cho phát triển kinh tế. Các mỏ quạng kim loại, hoá chât và dầu mỏ xuất hiện ở rất nhiều nơi đặc biệt trữ lượng dầu mỏ chiếm 2/3 tổng trữ lượng của thế giới nhưng phân bố không đều: lượng dầu mỏ tập trung 80% ở vùng vịnh Persia, một nửa lượng khí thiên nhiên ở Nga và 2/3 lượng than nằm ở Trung quốc.
Châu á có khoảng cách giàu nghèo rất lớn giữa các nước giàu và nước nghèo, chỉ một số vùng như Nhật bản, Singapore, các nước Đông á có quá trình công nghiệp hóa nhanh và các nước nhiều dầu mỏ là có đời sống cao. các phần còn lại như Bangladesh, Indonesia, Việt nam và Myanmar đều có mực sống rất thấp và phần lớn người dân sống trong nghèo khó. Nằm giữa hai cực này là Nga và các quốc gia vùng Trung á có nền kinh tế phát triển dựa trên công nghiệp nặng nhưng đời dống không cao.
nền kinh tế hầu hết các nước Châu á chưa được công nghiệo hoá toàn diện và mức thu nhập cũng không cân bằng. Nền kinh tế các nước Tây Nam á dựa chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp truyền thống và xuất khẩu dầu thô, công nghiệp chế biến và hoá dầu cũng bị hạn chế. Đông Nam á là nơi xuất khẩu nông phẩm khá lớn; hầu hết các ngành công nghiệp chế biến thì tập trung vào sơ chế nghuyên liệu thô và lắp rắp hàng tiêu dùng.
Nông nghiệp thu hút khoảng 50% lực lượng lao động ở Châu á; số người tham gia nông nghiệp thấp hơn ở các nước Nhật bản, Singapore, Lebanon, Israel và Kuwait tương tự như ở các nước công nghiệp phát triển ở Châu âu. Lực lượng lao động rẻ ở hầu hết các nước Châu á làm cho máy móc thiết bị và phân bón đầu tư vào đây cũng rất ít.
Sản xuất nông nghiệp về cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu nội địa ở hầu hết các quốc gia Châu á nhưng không đến được với tất cả mọi người dân vì hệ thống đường xá ở nông thôn quá yếu kém. Gạo là sản phẩm chủ yếu của vùng Nam á; lúa mỳ được trồng nhiều ở vùng Tây ấn, Đông nam á, Trung á và bắc Trung quốc.
Cá là nguồn cung cấp chất đạm chủ yếu cho người dân Châu á và đó cũng chủ yếu là ngành đánh bắt gần bờ, đánh bắt cá xa bờ mới chỉ phát triển ở Nhật bản, Trung quốc, ấn độ, Hàn quốc và Thái lan nơi có các đội tàu đánh bắt lớn. Nghề nuôi trồng thủy sản cũng phát triển mạnh ở Trung quốc, ấn độ, Nhật bản, Hàn quốc, Indonesia, Philippines, Malaysia, Singapore, Thái lan và Bangladesh. Chỉ có một số ít nước ở Châu á có dây chuyền đóng hộp và làm đông lạnh cá.
Kazakstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Turkmenistan, Uzbekistan, các quốc gia vùng vịnh Persia, Trung quốc và Indonesia sản xuất một nửa lượng dầu thô và 1/3 lượng khí thiên nhiên của toàn thế giới. Than được khai thác chủ yếu ở Trung quốc, Trung á, ấn độ, Bắc Triều tiên và Nhật bản. Malaysia, Thái lan và Indonesia là các nước sản xuất rất nhiều thiếc. Trung quốc là quốc gia đứng đâu thế giới về sản lượng vonfram.
Công nghiệp ở hầu hết các quốc gia Châu á vẫn chưa phát triển và chủ yếu là công nghiệp nhẹ. Nhật bản và Trung á là các nước đã công nghiệp hóa toàn diện còn Hàn quốc và Đài loan đang trong quá trình tiếp cận công nghiệp hóa. Sản xuất hàng tiêu dùng và từ liệu sản xuất ở Trung quốc và ấn độ đã cơ bản đáp ứng nhu cầu trong nước. Nhật bản, Hàn quốc, Đài loan, Hong Kong, Singapore và Philippines thì đặc biệt chú trọng vào sản xuất hàng tiêu dùng để xuất khẩu.
Nền tảng văn hóa
Về mặt lịch sử, nền văn hóa Châu á là sự tác động lẫn nhau của 5 nền văn hóa lớn là Trung quốc, ấn độ, Hồi giáo, Châu âu và Trung á.
Nền văn hóa Trung quốc đã tạo nên các nền văn hóa ở các quốc gia Đông á như Nhật bản, Triều tiên và Việt nam đồng thời có ảnh hưởng quyết định đến văn hóa Mông cổ, Tây tạng, Thái lan, Cambodia và Myanmar.
ảnh hưởng của văn hóa ấn độ chủ yếu thể hiện qua sự phát triển của đạo Hindu và đạo Phật. Những tôn giáo này mang theo văn học và nghệ thuật ấn độ đến Tây tạng, một phần Indonesia và Cambodia. ảnh hưởng của văn hoá ấn độ còn xuất hiện ở Trung á, Đông nam á và đạo Phật thậm chí còn lan đến cả Trung quốc và Nhật bản.
Đạo Hồi cũng từ cái nôi của nó là A rập lan đi tất cả các hướng. Nó chinh phục vùng Trung đông và Tây Nam á đồng thời nó duy trì ảnh hưởng ở miền đông bắc và tây bắc tiểu lục địa ấn độ. Bên cạnh đó nó còn lan rộng đến Indonesia và Malaysia. Đạo Hồi còn đến cả vùng Trung á. Tên vùng và lãnh thổ cùng quốc kỳ | Diện tích (km²) | Dân số (Thống kê 1 tháng 7, 2008) | Mật độ dân số (theo km²) | Thủ đô | Trung Á: | Kazakhstan | 2.724.927 | 15.666.533 | 5,7 | Astana | Kyrgyzstan | 198.500 | 5.356.869 | 24,3 | Bishkek | Tajikistan | 143.100 | 7.211.884 | 47,0 | Dushanbe | Turkmenistan | 488.100 | 5.179.573 | 9,6 | Ashgabat | Uzbekistan | 447.400 | 28.268.441 | 57,1 | Tashkent | Đông Á: | Nhật Bản | 377.835 | 127.288.628 | 336,1 | Tokyo | Mông Cổ | 1.565.000 | 2.996.082 | 1,7 | Ulaanbaatar | Triều Tiên | 120.540 | 23.479.095 | 184,4 | Bình Nhưỡng | Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa | 9.640.821 | 1.322.044.605 | 134,0 | Bắc Kinh | Đài Loan | 35.980 | 22.920.946 | 626,7 | Đài Bắc | Hàn Quốc | 98.480 | 49.232.844 | 490,7 | Seoul | Bắc Á: | Nga | 17.075.400 | 142.200.000 | 26,8 | Moskva | Đông Nam Á: | Brunei | 5.770 | 381.371 | 66,1 | Bandar Seri Begawan | Myanma | 676.578 | 47.758.224 | 70,3 | Naypyidaw | Campuchia | 181.035 | 13.388.910 | 74 | Phnôm Pênh | Đông Timor | 15.007 | 1.108.777 | 73,8 | Dili | Indonesia | 1.919.440 | 230.512.000 | 120,1 | Jakarta | Lào | 236.800 | 6.677.534 | 28,2 | Viêng Chăn | Malaysia | 329.847 | 27.780.000 | 84,2 | Kuala Lumpur | Philippines | 300.000 | 92.681.453 | 308,9 | Manila | Singapore | 704 | 4.608.167 | 6.545,7 | Singapore | Thái Lan | 514.000 | 65.493.298 | 127,4 | Bangkok | Việt Nam | 331.690 | 86.116.559 | 259,6 | Hà Nội | Nam Á: | Afghanistan | 647.500 | 32.738.775 | 42,9 | Kabul | Bangladesh | 147.570 | 153.546.901 | 1040,5 | Dhaka | Bhutan | 38.394 | 682.321 | 17,8 | Thimphu | Ấn Độ | 3.287.263 | 1.147.995.226 | 349,2 | New Delhi | Maldives | 300 | 379.174 | 1.263,3 | Malé | Nepal | 147.181 | 29.519.114 | 200,5 | Kathmandu | Pakistan | 803.940 | 167.762.049 | 208,7 | Islamabad | Sri Lanka | 65.610 | 21.128.773 | 322,0 | Sri Jayawardenepura Kotte | Tây Á: | Armenia |
|
|
| Yerevan | Azerbaijan | 86.660 | 8.845.127 | 102,736 | Baku | Bahrain | 665 | 718.306 | 987,1 | Manama | Síp | 9.250 | 792.604 | 83,9 | Nicosia | Gruzia |
|
| 64,06 | Tbilisi | Iraq | 437.072 | 28.221.181 | 54,9 | Baghdad | Iran | 1.648.195 | 70.472.846 | 42,8 | Tehran | Israel | 20.770 | 7.112.359 | 290,3 | Jerusalem | Jordan | 92.300 | 6.198.677 | 57,5 | Amman | Kuwait | 17.820 | 2.596.561 | 118,5 | Thành phố Kuwait | Liban | 10.452 | 3.971.941 | 353,6 | Beirut | Oman | 212.460 | 3.311.640 | 12,8 | Muscat | Palestine | 6.257 | 4.277.000 | 683,5 | Ramallah | Qatar | 11.437 | 928.635 | 69,4 | Doha | Ả Rập Saudi | 1.960.582 | 23.513.330 | 12,0 | Riyadh | Syria | 185.180 | 19.747.586 | 92,6 | Damas | Thổ Nhĩ Kỳ |
|
|
| Ankara | Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất | 82.880 | 4.621.399 | 29,5 | Abu Dhabi | Yemen | 527.970 | 23.013.376 | 35,4 | Sanaá | Tổng cộng | 43.810,582 | 4.162.966.086 | 89,07 | |
Schoolnet
|