Hotline: 024.62511017

024.62511081

  Trang chủ   Sản phẩm   Phần mềm Dành cho nhà trường   Phần mềm Hỗ trợ học tập   Kho phần mềm   Liên hệ   Đăng nhập | Đăng ký

Tìm kiếm

School@net
 
Xem bài viết theo các chủ đề hiện có
  • Hoạt động của công ty (726 bài viết)
  • Hỗ trợ khách hàng (498 bài viết)
  • Thông tin tuyển dụng (57 bài viết)
  • Thông tin khuyến mại (80 bài viết)
  • Sản phẩm mới (216 bài viết)
  • Dành cho Giáo viên (549 bài viết)
  • Lập trình Scratch (3 bài viết)
  • Mô hình & Giải pháp (156 bài viết)
  • IQB và mô hình Ngân hàng đề kiểm tra (127 bài viết)
  • TKB và bài toán xếp Thời khóa biểu (242 bài viết)
  • Học tiếng Việt (183 bài viết)
  • Download - Archive- Update (289 bài viết)
  • Các Website hữu ích (70 bài viết)
  • Cùng học (92 bài viết)
  • Learning Math: Tin học hỗ trợ học Toán trong nhà trường (78 bài viết)
  • School@net 15 năm (154 bài viết)
  • Mỗi ngày một phần mềm (7 bài viết)
  • Dành cho cha mẹ học sinh (124 bài viết)
  • Khám phá phần mềm (122 bài viết)
  • GeoMath: Giải pháp hỗ trợ học dạy môn Toán trong trường phổ thông (36 bài viết)
  • Phần mềm cho em (13 bài viết)
  • ĐỐ VUI - THƯ GIÃN (363 bài viết)
  • Các vấn đề giáo dục (1210 bài viết)
  • Bài học trực tuyến (1037 bài viết)
  • Hoàng Sa - Trường Sa (17 bài viết)
  • Vui học đường (275 bài viết)
  • Tin học và Toán học (220 bài viết)
  • Truyện cổ tích - Truyện thiếu nhi (180 bài viết)
  • Việt Nam - 4000 năm lịch sử (97 bài viết)
  • Xem toàn bộ bài viết (8223 bài viết)
  •  
    Đăng nhập/Đăng ký
    Bí danh
    Mật khẩu
    Mã kiểm traMã kiểm tra
    Lặp lại mã kiểm tra
    Ghi nhớ
     
    Quên mật khẩu | Đăng ký mới
     
    Thành viên có mặt
    Khách: 6
    Thành viên: 0
    Tổng cộng: 6
     
    Số người truy cập
    Hiện đã có 89576367 lượt người đến thăm trang Web của chúng tôi.

    Giáo dục đại học: Chưa chuyển động nhưng coi chừng đã… quá đà!

    Ngày gửi bài: 04/04/2008
    Số lượt đọc: 2405

    Những tín hiệu tích cực gần đây từ nhiều phía liên quan đến giáo dục đại học cho thấy sự đồng thuận lớn của xã hội đối với những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của bậc học. Tuy vậy, hiện vẫn còn rất nhiều quan điểm trái ngược nhau về các giải pháp này. Nhân đọc bài "30 năm vẫn một cách dạy", tôi xin nêu lên một vài quan ngại, mà nếu không chú trọng xử lý, e sẽ dẫn đến những sự quá đà trong nay mai!

    Thứ nhất, chúng ta đều thừa nhận với nhau là nền giáo dục nước nhà hiện có khoảng cách lớn so với thế giới; chưa đáp ứng với chính nhu cầu xã hội và cần phải chấn hưng. Vấn đề là chúng ta sẽ bắt đầu từ đâu, để phá vỡ cái vòng luẩn quẩn kéo chúng ta lại phía sau đó? Và Bộ Giáo dục - Đào tạo đã đưa ra một câu trả lời – một giải pháp tình thế (?) - đó là bắt đầu từ khâu giáo dục đại học, với hàng loạt các chương trình, giải pháp như lộ trình tăng học phí, thay đổi quy chế đào tạo tiến sỹ, yêu cầu các trường đại học công bố các chuẩn đào tạo, thay đổi phương pháp giảng dạy từ thuộc lòng sang tranh luận… Câu hỏi đặt ra là, vì sao chúng ta lại chọn bậc đại học, là bậc học cao nhất làm khâu đột phá? Có phải chăng vì điều đó sẽ giúp chúng ta nhanh chóng nhìn thấy kết quả cải cách giáo dục? Và nếu vậy thì phải chăng chúng ta lại đã hành động theo nếp nghĩ “bệnh thành tích” xưa nay? Bởi lẽ, một khi cả cái nền tảng – giáo dục phổ thông còn đang lạc hậu – thì liệu cái ngọn – giáo dục đại học có thể chấn hưng cả hệ thống? Xét về phương diện một cá nhân, liệu khi một sinh viên với 12 năm học theo kiểu vẹt dựa trên những “khuôn vàng thước ngọc” không thể tranh cãi, cùng với “tập quán” khép nép trước thầy cô có thể ngẩng đầu và xưng tôi với giảng viên khi vừa bước chân vào trường đại học? Một nền giáo dục đại học tiên tiến liệu có “sửa chữa” được những “di chứng” giáo dục đã lan tỏa hơn chục năm đầu đời của một con người? Hơn nữa, cần phải lưu ý rằng ngay cả khả năng như vậy là có thể, thì cũng chỉ có rất ít con em chúng ta may mắn được tham gia vào, bởi phần lớn học sinh phổ thông đã không vào đại học cơ mà!

    Trong một hội thảo mới đây, đã có ý kiến sinh viên cần xưng tôi với giảng viên đại học. Liệu ý kiến này có khả thi? Bởi nói thẳng ra, ngay trong các cuộc họp chuyên môn, liệu các giáo viên mới, trẻ có dám xưng tôi hay không với các “cây đa cây đề” là các giảng viên lớn tuổi hay có học hàm học vị? Gần như 100% là không! Vậy thì có thể nào lại mong đợi sinh viên xưng tôi với giảng viên? Bởi kiến thức và sự tự tin không vẫn chưa đủ. Mà còn là văn hóa và truyền thống. Biết tranh luận có văn hóa, không áp đặt, không ngụy biện là cả một con đường dài, trong đó người sinh viên phải được rèn luyện từ trong gia đình, trường học phổ thông, và người giảng viên đại học cũng không phải là ngoại lệ!

    Thứ hai, phải nhận thức như thế nào về yêu cầu sinh viên tốt nghiệp đại học phải làm việc được ngay, mà chúng ta còn nói theo cách khác là đào tạo phải theo nhu cầu xã hội? Mặc dù không nghi ngờ gì về tính thực tiễn của yêu cầu này, nhưng tôi nghĩ rằng phải có nhận thức thật đầy đủ. Chẳng hạn, khi yêu cầu các trường đại học công bố tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp tìm được việc làm và coi đó như một tiêu chí đánh giá chất lượng trường đại học thì liệu đó có phải là tiêu chí thỏa đáng? Bởi điều quan trọng nhất chính là công việc mà người sinh viên mới ra trường làm có phù hợp hay liên quan với chuyên ngành được đào tạo hay không chứ không phải chỉ đơn giản là có việc làm. Lấy ví dụ, nếu 100% sinh viên khoa tiếng Anh của đại học sư phạm có việc làm, nhưng đến 90% làm việc tại các doanh nghiệp thì rõ ràng tỷ lệ này chẳng nói lên điều gì đáng được mong đợi! Bên cạnh đó, còn một vấn đề liên quan đến tiêu chí đánh giá đào tạo có đáp ứng nhu cầu xã hội hay không. Đó là những nhận định của một vài nhà quản lý về kỹ năng của sinh viên mới ra trường. Theo họ, là có khoảng cách lớn so với thực tế. Nếu sinh viên thiếu một số kỹ năng như giao tiếp tiếng Anh tốt, sử dụng thành thạo các thiết bị văn phòng, thì điều này có quá trầm trọng không? Bởi những kỹ năng như thế họ, những sinh viên trẻ tuổi và đầy nhiệt huyết, sẽ học và nắm vững rất nhanh trên cơ sở đã được trang bị, tích lũy những kiến thức nền tảng. Vậy có điều gì không ổn ở đây không? Lấy ví dụ trong nghề kế toán, nếu nói trên quan điểm “được việc” thì giữa một người làm sổ sách kế toán có kinh nghiệm (thành thạo với các chứng từ, quy trình, mẫu biểu) với một cử nhân chuyên ngành kế toán, lẽ nào người cử nhân kém hơn chỉ vì anh/chị ta “lơ mơ” với những mẫu chứng từ, sổ sách, quy trình cụ thể tại một doanh nghiệp cụ thể nào đó? Nhà văn Nguyên Ngọc, trong một hội thảo về giáo dục đại học gần đây, đã có một phát biểu đáng đễ suy ngẫm, rằng nếu giáo dục đại học chỉ nhằm phục vụ nhu cầu (xã hội) là hết sức thiển cận, phải chăng cũng là vì lẽ này? Nhiệm vụ của giáo dục đại học, theo thiển nghĩ, là phải nhận biết và đào tạo các giá trị cốt lõi cho sinh viên, để sinh viên có thể thích ứng nhanh với thực tiễn, trên cơ sở tư duy sáng tạo và độc lập. Nên sẽ là phi lý khi yêu cầu người sinh viên mới ra trường phải thành thạo các mẫu hồ sơ, giấy tờ cũng như các quy trình nhiều khi rất rườm rà của các doanh nghiệp.

    Thứ ba, giảm tải (học trên giảng đường) và tăng thời lượng thực tập như thế nào là hợp lý? Bởi nếu giảm tải chỉ bằng cách rút ngắn thời gian cho các môn học theo một “chương trình khung” thì liệu có hiệu quả? Trên thực tế, giảm tải chỉ có thể thực hiện được nếu có chương trình mới, chuẩn đào tạo mới, giáo trình mới và phương pháp giảng dạy mới… Nếu không, việc giảm tải chỉ có tính chất hình thức vì về thực chất thì sinh viên cũng vẫn phải đảm bảo “ngốn” hết các chương trình khung như cũ, như vậy có thể mất thời gian hơn cho người học vì việc tự học trong điều kiện giáo trình, tài liệu, thư viện còn thiếu thốn sẽ không dễ dàng.

    Bên cạnh việc giảm tải, việc chủ trương cho sinh viên “đi thực tế” nhiều hơn cũng cần phải xem lại về tính hiệu quả. Tình trạng phổ biến hiện nay là sinh viên các trường đại học được bố trí học kỳ cuối để đi thực tập, trong đó thời gian vào thực tập tại doanh nghiệp thường kéo dài khoảng hai, ba tháng. Trong ít tháng thực tập này (mà thực tế thì chỉ khoảng được mươi ngày đến đơn vị bởi nhiều nơi… quá chật chỗ không cho sinh viên thực tập toàn thời gian) sinh viên tích lũy và cải thiện được những gì? Đối với không ít sinh viên, đó có thể chẳng là gì cả! Vì đa số các doanh nghiệp tiếp nhận sinh viên đến thực tập chỉ cho có lệ và sinh viên thì chỉ “cưỡi ngựa xem hoa”, vì không được tham gia vào quy trình thực tế cũng như không được tiếp cận với thông tin mới, chỉ được tiếp cận các thông tin cũ và hầu như là không rõ giá trị hiệu lực. Vậy làm thế nào có thể cải thiện được những kỹ năng cho sinh viên với kiểu thực tập như vậy? Và làm thế nào sinh viên có thể có những khóa luận tốt nghiệp có giá trị? Vậy cho nên, nếu không thay đổi cách thức tổ chức thực tập cho sinh viên hiện nay tại các doanh nghiệp thì càng kéo dài thời gian cho việc này bao nhiêu (có trường đã dự kiến khoảng hai học kỳ chẳng hạn) sẽ càng lãng phí thêm thời gian, mà lẽ ra sinh viên có thể dành để tích lũy các tri thức mới. Gần đây, một số doanh nghiệp đã bắt đầu đưa ra kiểu thực tập gọi là các chương trình “thực tập nội trú” (intership), trong đó tuyển chọn các sinh viên tham gia làm việc thật tại doanh nghiệp nhằm phục vụ mục đích tuyển dụng nhân viên cho doanh nghiệp. Tuy vậy những chương trình như vậy còn rất hạn chế và chỉ một số rất ít các sinh viên xuất sắc mới được tham gia.

    Thứ tư là vấn đề thi cử của sinh viên. Đề mở hay đề đóng, thi trắc nghiệm hay thi tự luận, kiểu thi nào sẽ giúp đánh giá sinh viên tốt hơn? Đúng là lối thi cử “từ chương” luôn là nỗi ám ảnh các sĩ tử nước nhà từ hàng thế kỷ nay, chẳng thế mà một nhà nho xưa từng cám cảnh “thi không ăn ớt thế mà cay” và câu “học tài thi phận” gần như là một trong những câu nói cửa miệng của các sĩ tử. Lối thi cử “từ chương" đó, nói theo ngôn ngữ “hiện đại” thì đó là lối thi tự luận, trả lời thuộc lòng, và quan trọng nhất là không được tham khảo tài liệu. Quy định không được tham khảo tài liệu khi làm bài thi đã làm nảy sinh bao tiêu cực trong thi cử, đến nỗi ngành giáo dục vừa qua đã phải phát động phong trào “nói không với tiêu cực trong thi cử”… Vậy là trước sức ép của dư luận, các trường đại học đang dần chuyển hướng cách ra đề và thi cử theo kiểu trắc nghiệm và/hoặc được phép tham khảo tài liệu trong khi thi (gọi là đề mở). Hiệu quả đối với hoạt động đánh giá sinh viên thì chưa biết ra sao nhưng hậu quả thì có thể thấy tức thì. Nếu không tin, mời bạn hãy đến một phòng thi theo kiểu đề mở, trong đó mỗi sinh viên đến phòng thi ôm cả một … thư viện trong tay, và khi làm bài thì nhanh tay lật tất cả các loại tài liệu mang theo để tìm cho kỳ được đáp án tốt nhất (!). Bạn có thể tin kiểu thi này giúp người học có tư duy sáng tạo hơn so với kiểu học thuộc lòng? Tôi thì cho rằng thậm chí còn khiến sinh viên sao chép theo một kiểu tệ hại hơn (vì sao chép mà không có tí kiến thức “thuộc lòng” gì trong đầu như khi thi đề đóng).

    Cũng liên quan đến thi, cách ra đề thi trắc nghiệm hiện đã được triển khai tương đối phổ biến, mà có người cho rằng đó là cách thi đòi hỏi thí sinh phải xét đoán, vận dụng nhiều hơn là thuộc lòng. Tuy vậy, cũng cần phải xem xét lại mức độ như thế nào, bởi GS Bùi Trọng Liễu, một người đã hiến rất nhiều ý kiến cho việc chấn hưng giáo dục nước nhà, đã phát biểu không nên thay kiểu ra đề tự luận bằng trắc nghiệm. Vì lẽ, đề trắc nghiệm chỉ một đáp án đúng trong khi các đáp án còn lại là sai nên có thể làm cho sinh viên ấn tượng với cái sai nhiều hơn, và khi đã nhập tâm cái sai rồi thì sẽ rất khó sửa. Lại thêm một phản biện cũng không phải không đáng để suy ngẫm!

    Thứ năm, là mục tiêu tăng nhanh số lượng tiến sỹ trong các trường đại học, với “định mức” có thêm khoảng vài vạn tiến sỹ trong ít năm tới. Không lẽ học tiến sỹ dễ vậy sao? Nếu không dễ thì liệu có thể có vài vạn tiến sỹ trong ngần ấy năm không? Bên cạnh đó, còn một vấn đề quan trọng hơn rất nhiều đó là các tiến sỹ thế hệ mới có được định hướng phù hợp với chuyên môn giảng dạy hay không? Bởi trên thực tế, có không ít trường hợp học vị tiến sỹ chỉ được làm cho đủ thủ tục (để bổ nhiệm chẳng hạn) mà người ta đâu có quan tâm chuyên môn đào tạo có phù hợp với chuyên ngành giảng dạy hay không? Vậy cho nên bên cạnh các biện pháp kiểu “kích cầu” trong đào tạo tiến sỹ này cần chú trọng quy định các trường đại học phải đầu tư cho đội ngũ tiến sỹ thế hệ mới đúng chuyên ngành, chuyên môn chứ không thể kéo dài kiểu suy nghĩ "tiến sỹ thì giảng cái gì chả được"! Ở đây, cần phải làm đồng bộ hai việc, một là khẩn trương lựa chọn và đề cử người có năng lực đi học nghiên cứu sinh, song song đó phải kiên quyết yêu cầu chú trọng lựa chọn chuyên ngành phù hợp.

    Tóm lại, với rất nhiều ý kiến phản biện khác nhau, có thể nói chúng ta vẫn còn đang đứng trước nhiều ngã rẽ, và chưa biết ngã nào sẽ dẫn đến thành công. Chính vì vậy, nói như tác giả Chánh Lộc, điều quan trọng hơn hết là phải lựa chọn và định hướng một mô hình, rồi mới tìm lộ trình để hiện thực hóa mô hình đó. Và một điều chắc chắn là không phải cứ cái gì cũng làm khác so với hiện tại thì chúng ta sẽ đạt tới trình độ “hiện đại” trong tương lai!

    Đặng Đình Tân (TP.HCM)

    School@net (Theo http://www2.thanhnien.com.vn/Ykien/2008/2/13/225872.tno)



     Bản để in  Lưu dạng file  Gửi tin qua email


    Những bài viết khác:



    Lên đầu trang

     
    CÔNG TY CÔNG NGHỆ TIN HỌC NHÀ TRƯỜNG
     
    Phòng 804 - Nhà 17T1 - Khu Trung Hoà Nhân Chính - Quận Cầu Giấy - Hà Nội
    Phone: 024.62511017 - 024.62511081
    Email: kinhdoanh@schoolnet.vn


    Bản quyền thông tin trên trang điện tử này thuộc về công ty School@net
    Ghi rõ nguồn www.vnschool.net khi bạn phát hành lại thông tin từ website này
    Site xây dựng trên cơ sở hệ thống NukeViet - phát triển từ PHP-Nuke, lưu hành theo giấy phép của GNU/GPL.