Hotline: 024.62511017

024.62511081

  Trang chủ   Sản phẩm   Phần mềm Dành cho nhà trường   Phần mềm Hỗ trợ học tập   Kho phần mềm   Liên hệ   Đăng nhập | Đăng ký

Tìm kiếm

School@net
 
Xem bài viết theo các chủ đề hiện có
  • Hoạt động của công ty (726 bài viết)
  • Hỗ trợ khách hàng (498 bài viết)
  • Thông tin tuyển dụng (57 bài viết)
  • Thông tin khuyến mại (80 bài viết)
  • Sản phẩm mới (216 bài viết)
  • Dành cho Giáo viên (549 bài viết)
  • Lập trình Scratch (3 bài viết)
  • Mô hình & Giải pháp (156 bài viết)
  • IQB và mô hình Ngân hàng đề kiểm tra (127 bài viết)
  • TKB và bài toán xếp Thời khóa biểu (242 bài viết)
  • Học tiếng Việt (183 bài viết)
  • Download - Archive- Update (289 bài viết)
  • Các Website hữu ích (70 bài viết)
  • Cùng học (92 bài viết)
  • Learning Math: Tin học hỗ trợ học Toán trong nhà trường (78 bài viết)
  • School@net 15 năm (154 bài viết)
  • Mỗi ngày một phần mềm (7 bài viết)
  • Dành cho cha mẹ học sinh (124 bài viết)
  • Khám phá phần mềm (122 bài viết)
  • GeoMath: Giải pháp hỗ trợ học dạy môn Toán trong trường phổ thông (36 bài viết)
  • Phần mềm cho em (13 bài viết)
  • ĐỐ VUI - THƯ GIÃN (363 bài viết)
  • Các vấn đề giáo dục (1210 bài viết)
  • Bài học trực tuyến (1037 bài viết)
  • Hoàng Sa - Trường Sa (17 bài viết)
  • Vui học đường (275 bài viết)
  • Tin học và Toán học (220 bài viết)
  • Truyện cổ tích - Truyện thiếu nhi (180 bài viết)
  • Việt Nam - 4000 năm lịch sử (97 bài viết)
  • Xem toàn bộ bài viết (8223 bài viết)
  •  
    Đăng nhập/Đăng ký
    Bí danh
    Mật khẩu
    Mã kiểm traMã kiểm tra
    Lặp lại mã kiểm tra
    Ghi nhớ
     
    Quên mật khẩu | Đăng ký mới
     
    Thành viên có mặt
    Khách: 6
    Thành viên: 0
    Tổng cộng: 6
     
    Số người truy cập
    Hiện đã có 89514880 lượt người đến thăm trang Web của chúng tôi.

    10 vấn đề "nóng" của năm 2008 (tiếp theo)

    Ngày gửi bài: 16/01/2008
    Số lượt đọc: 2387

    Cải cách giáo dục: cẩn trọng nhưng không thể đợi lâu Cải tổ giáo dục không thể chậm trễ hơn nữa, đặc biệt trong giáo dục ĐH. Một bạn đọc đặt vấn đề, giáo dục Việt Nam cần cải tổ như thế nào trong khi bản thân giáo viên chưa đủ chất lượng?

    GS Ngô Vĩnh Long: Việt Nam vừa phải rà soát để có biện pháp tức thời, gần như chữa cháy nhưng cũng phải tính giải pháp lâu dài để cải tổ toàn bộ hệ thống giáo dục. Theo Giáo sư Ngô Vĩnh Long, cải cách giáo dục cần qua nghiên cứu kỹ lưỡng, tính toán cẩn trọng, làm thí điểm. Sẽ rất khó nếu làm tràn lan. Ví dụ, Việt Nam có thể thí điểm bỏ một số môn học. Từ kinh nghiệm các nước, học sinh chỉ học 6-8 môn là cùng, không nên học tới 20 môn như hiện nay. Áp lực học tập với các em hiện nay quá lớn.

    Tiến sĩ Nguyễn Quang A chia sẻ bài toán giáo dục rất phức tạp và khó, cần nghiên cứu thấu đáo, tìm biện pháp khả thi thực hiện được ngay song song với một kế hoạch dài hơi. Cải cách giáo dục không thể tính 1-2 năm mà giải quyết được. Thậm chí, không thể vài ba hay 5 năm vì hệ thống rất lớn, phức tạp, làm không khéo rất rắc rối.

    Cải cách giáo dục đụng đến hàng chục triệu con người nên phải làm hết sức thận trọng. Việt Nam vừa phải rà soát lại xem có biện pháp tức thời, gần như "chữa cháy" đáp ứng yêu cầu trước mắt của DN, đồng thời, phải tính giải pháp lâu dài để cải tổ toàn bộ hệ thống giáo dục. Ví dụ, một mặt, ngành ĐH và dạy nghề, trong vài ba năm có thể chuyển ngay thành người lao động, do đó, cần hướng dạy nghề nên tập trung hơn và mở rộng tiếp cận thị trường, để tư nhân, nước ngoài tham gia đào tạo, huấn luyện công nhân kỹ thuật nhanh chóng, để học sinh trong vài năm có thể bổ sung kỹ năng cần thiết cho lực lượng lao động. Việt Nam có thể cải tiến sớm chuyện về ĐH.

    Bà Phạm Chi Lan lại cho rằng, đây là chuyện bức xúc của toàn xã hội, được quan tâm không chỉ của người lớn mà cả trẻ em. "Cháu nội tôi 10 tuổi còn bức xúc vì áp lực lớn trong học hành".

    "Xã hội không thể đợi quá lâu như vậy, vì vấn đề này đang cọ xát ngày càng dồn dập, là bức xúc trước mắt", bà Lan nhấn mạnh. Có những việc hoàn toàn có thể giải quyết ngay được, như chuyện giảm tải ở trường phổ thông. Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân nói khi làm, người lớn khi làm, cần có thể tra cứu, tại sao trẻ nhỏ lại phải học thuộc tất cả mọi thứ. Trẻ con từ cấp 1 đã phải quá vất vả với chương trình học. Nhìn các nước xung quanh, nhiều người đi học bên ngoài, nhiều thứ chúng ta học thừa so với nước ngoài. Việt Nam cần để các cháu tập trung học những gì cần, tập thói quen ham học. Hiện nay, giáo dục gây tâm lý sợ đến trường cho các em nhiều hơn.

    "Việc gì làm được thì cần làm ngay. Nếu đợi để ra giải pháp thì quá trễ, quá muộn cho nền kinh tế".

    Tiến sĩ Nguyễn Quang A dẫn lời ông Phạm Toàn cho rằng, trẻ em Nhật Bản, Trung Quốc học 5-7 năm mới học thông, viết thạo, nhưng Việt Nam 1-1,5 năm, thậm chí 6 tháng đọc thông viết thạo. Tại sao Việt Nam lại cần học 12 năm phổ thông? Nếu có thể, chúng ta vừa tiết kiệm được vài năm, làm những việc có ích hơn.

    Nguồn nhân lực: Nói nhiều nhưng làm chưa nhiều

    Song song với câu chuyện giáo dục, vấn đề khai thác và sử dụng nguồn lực quốc gia, đặc biệt là con người được thảo luận chi tiết tại buổi trực tuyến. Bà Phạm Chi Lan cho rằng, đây thực sự là nút quan trọng nếu chúng ta muốn phát triển tiếp.

    Tầm quan trọng của nguồn nhân lực, quan điểm lấy con người là trung tâm đã được nói nhiều, nhưng thực tế việc làm được chưa nhiều, chưa như mong muốn.

    Vấn đề nổi lên nhất năm 2007 chính là thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng trong tất cả các ngành, lĩnh vực và cấp, từ quản trị nhà nước, quản trị DN, quản trị trường học… đến nguồn lao động có kỹ năng. Thiếu hụt của 2007 cho thấy rõ những năm qua chúng ta nói nhiều nhưng chưa có những việc làm cần thiết cụ thể để giải quyết.

    Theo bà Lan, ái chốt không chỉ là giáo dục đào tạo mà là tuyển dụng và sử dụng hiện còn nhiều bất cập, đặc biệt là chưa minh bạch về chuẩn mực.

    Thời gian qua, trong cải cách hành chính tập trung sắp xếp bộ máy, nhưng con người - vấn đề cốt lõi lại chưa được đụng chạm đến bao nhiêu. Trong cải cách hành chính, bộ máy nhà nước cần cải thiện nhiều nhất. Đối với DN tư nhân, họ buộc cạnh tranh, phải lựa chọn người thực sự có năng lực.

    Chuyện nguồn nhân lực theo ông là cái lo của Nhà nước. "Đó là căn bệnh trầm kha của Nhà nước". Theo ông, nguyên tắc cơ bản trong quản trị nhân sự giống nhau, dù nhà nước hay tư nhân. Nguyên tắc chung là giống, nhưng quy định cụ thể lại tạo khuyến khích ngược để học giả bằng thật, mua bằng, chạy chọt phát triển lên.

    Theo Tiến sĩ Nguyễn Quang A, trong khu vực nhà nước, người ta vẫn nói nhân lực là quan trọng nhưng không làm như vậy. Tiêu chí để chọn không phải chọn người có năng lực, người tài mà chọn theo tiêu chí gì, không cần nói ra nhưng ai cũng biết.

    Với hơn 80 triệu dân, 40 triệu lao động, số người giỏi không thiếu, vấn đề là nhà nước có tuyển dụng, sử dụng thích đáng hay không. Việt Nam cần có chế độ đích đáng, để người lao động làm việc tốt hơn, đồng thời thúc đẩy người trẻ học thực, làm việc thực. Việc này cũng sẽ thúc đẩy giáo dục đào tạo đến nơi đến chốn, sản phẩm đưa ra được xã hội thừa nhận. Bà Chi Lan chia sẻ cảm nhận không phải Việt Nam không có người giỏi, kể cả với hệ thống tuyển dụng hiện nay. Đoàn đàm phán WTO là một điển hình, ngay cả Pascal Lamy đã khen ngợi. Chúng ta có người giỏi trong bộ máy. Nhưng nhà nước phát triển kinh tế không chỉ dựa vào bộ máy của mình, mà cần cho toàn dân hiểu bộ máy của mình. Phát triển kinh tế gắn với vận mệnh của từng người dân, do đó cần huy động toàn dân, sẽ có đội ngũ chuyên gia rộng rãi, không chỉ trong bộ máy.

    Đồng thời, Nhà nước cũng cần tạo điều kiện cho phát huy hơn nữa trí tuệ trong bộ máy của mình.

    Giải pháp để giải quyết vấn đề này không khó, nhưng phải thực sự đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy nhưng có làm hay không là chuyện mấu chốt.

    Cách hay nhất là nhà nước nên bỏ một số tiền không nhỏ để cải tổ thực sự vấn đề này, chọn đúng được người, có được quy trình rạch ròi về tuyển chọn, bằng cấp chỉ là tham khảo, có quy trình cất nhắc từng người, kết quả minh bạch, dựa trên kết quả công việc cụ thể. Nó là một thủ tục minh bạch, bàn dân thiên hạ đều biết.

    Chuyện chương trình Fulbright là một ví dụ của chất lượng đào tạo và câu chuyện sử dụng người. Theo bà Phạm Chi Lan, những người học chương trình Fulbright chưa được cấp bằng chính thức, nhưng về cơ quan phát huy rất tốt, được cơ quan đánh giá có chất lượng. Mô hình phối hợp như vậy cần học hỏi và nhân rộng ra. Coi trọng chất lượng người được đào tạo. Còn văn bằng gì thì ở Việt Nam có nghịch lý là không thiếu văn bằng gì nhưng không biết sâu chuyên môn. Những người này, theo bà, "không chỉ khu vực tư mà cả khu vực công cũng không thể sử dụng được".

    Giáo sư Ngô Vĩnh Long lại cho rằng, tìm người có kỹ năng đã khó nhưng quan trọng là cho những người này cơ hội để thể hiện mình. Trong công việc, kỹ năng là quan trọng chứ không phải là tấm bằng. Thị trường sẽ là người tuyển chọn và đào thải người lao động.

    Tham gia HĐBA: còn là câu chuyện đối nội

    2008, Việt Nam trở thành thành viên không thường trực HĐBA Liên Hợp Quốc. Cùng thời gian đó, Việt Nam sẽ có 6 tháng là chủ tịch HĐBA. Theo Giáo sư Ngô Vĩnh Long Việt Nam phải đưa ra sắp xếp hợp lý, để có thể giải quyết các vấn đề lớn trên thế giới, tăng vị thế Việt Nam tại HĐBA và trên thế giới.

    "Phải nghiên cứu kỹ những vấn đề liên quan đến HĐBA, không chỉ an ninh hòa bình mà còn nhiều vấn đề lớn khác như an toàn con người, trong đó có quyền con người. Theo GS. Ngô Vĩnh Long, tất cả các nước đều nghiên cứu, đưa ra những lợi ích ở HĐBA để có thể tranh cãi vấn đề một cách dễ dàng.

    Việt Nam không thể đợi vấn đề đưa lên, đợi ý kiến thảo luận trong nước mới đưa ra bàn luận. Việc đó sẽ khó cho Việt Nam.

    "Vấn đề lớn không phải là thế giới làm khó cho chúng ta. Vấn đề là trong nước thống nhất với nhau, và trao cho các các cơ quan đại diện ở nước ngoài như thế này, tại ASEAN, HĐBA, có thể quyết định tin cậy ngay tại chỗ".

    Chia sẻ góc nhìn về vị thế mới này, bà Phạm Chi Lan cho rằng, tham gia HĐBA trong bối cảnh thế giới đang biến động và thay đổi sâu sắc, Việt Nam phải tự trang bị cho mình hiểu biết và nghiên cứu đầy đủ, vững chắc về các vấn đề lớn trên thế giới. Đặc biệt vấn đề khu vực, vấn đề an ninh, sức ép của mối quan hệ với nhiều cường quốc trên thế giới, muốn có vị trí, Việt Nam buộc phải có bản lĩnh tốt hơn, đóng vai trò tích cực trong các vấn đề khu vực và toàn cầu.

    Theo Tiến sĩ Nguyễn Quang A, với vai trò này, nếu Việt Nam ứng xử một cách khéo và chững chạc, uy tín của Việt Nam sẽ lên rất cao nhưng làm không khéo sẽ rất tai tiếng. Ví dụ, xảy ra vấn đề gì trên thế giới, là chủ tịch HĐBA nhưng Việt Nam không để ý đến, mà đợi sức ép của ai đó mới lên tiếng.

    Việt Nam cần chủ động hơn. Đây là việc không đơn giản nhưng phải rất bản lĩnh trong ứng xử như một đối tác đường hoàng trong thế giới ngày nay.

    Hơn nữa, theo ông Quang A, Việt Nam cần đặt vấn đề ứng xử với thế giới, và với trong nước như thế nào, kể cả những chuyện như với DN trong nước, nước ngoài, giáo dục đào tạo và những câu chuyện nhạy cảm khác. Đó là cơ hội thể hiện tư thế của mình.

    "Việt Nam có thể làm được rất nhiều thứ trong câu chuyện đối nội của mình, đồng thời thể hiện được vai trò của mình tại LHQ".

    Giáo sư Ngô Vĩnh Long nói thêm, nhiều nước trên thế giới, nhất là nước lớn đang chờ xem các hành động của Việt Nam như thế nào hiện nay. Trong quá khứ, sau khi vào ASEAN, các nước lớn quan sát Việt Nam, "nắn gân", thử xem phản ứng của Việt Nam như thế nào. Ngày nay vào HBĐA, "nắn gân" xem phản ứng ra sao, xem họ có thể ép ta như thế nào.

    Vấn đề đặt ra với Việt Nam không chỉ đối ngoại mà cả đối nội, vì đối nội hỗ trợ đối ngoại. Cư xử không tốt, không thức thời về một vấn đề nào đó, nước ngoài có thể đánh giá bản lĩnh của ta.

    Vào HĐBA, vận hội lớn nhưng nếu không tận dụng tình hình, tăng uy tín Việt Nam, mở cửa ra thế giới, mở rộng xã hội Việt Nam, chúng ta có thể sẽ mất uy tín về sau. Làm không tốt, không chỉ làm mất cơ hội của hiện nay mà làm mất cơ hội cho mai sau. Cái giá phải trả sẽ rất đắt.

    Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam có vận hội lớn như thế này, đặc biệt từ 1945 đến nay. Nhưng nếu ta làm không khéo, hình ảnh Việt Nam sẽ không tốt. Đây là vấn đề 1-2 năm tới có tác động lớn, và là vấn đề lâu dài mai sau.

    Năm đột phá về cải cách hành chính chưa tạo được đột phá

    Năm 2007 được xem là năm đột phá về cải cách hành chính của Việt Nam, tuy nhiên, theo bà Phạm Chi Lan, năm qua, nền hành chính Việt Nam vẫn chưa có đột phá đáng kể. Việc cải cách hành chính có tiến độ chậm chạp, tác động hạn chế.

    "Không thể để ghi nhận mãi là khâu đột phá nhưng thực tế vẫn chưa có đột phá gì trong bản thân nó, chưa nói đến tác động đột phát lên toàn xã hội".

    "Không ai tự đập niêu cơm của mình". Chờ bộ máy tự chuyển động sẽ rất khó khăn. Để làm tốt hơn, Việt Nam cần tăng thêm giám sát, tham gia của người dân để cải cách hành chính thực sự hiệu quả.

    Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và các lãnh đạo dù quyết liệt, kêu gọi sự tham gia giám sát rộng rãi. Tuy nhiên, thực tế vẫn chủ yếu dừng ở lời kêu gọi của người đứng đầu Chính phủ. Theo bà Lan, lời kêu gọi, ý tưởng của Thủ tướng chưa thấm xuống cấp dưới. Trong khi đó, để có sự thay đổi, bản thân Bộ máy của Thủ tướng cần phải làm thấm những điều đó. Đây là điều Việt Nam chưa làm được.

    Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn đặt vấn đề, lãnh đạo rất nhiệt huyết, đưa chỉ đạo quyết liệt cho cấp dưới. Tuy nhiên, có những cái mục tiêu chưa hoàn thành đúng thời hạn. Vấn đề nằm ở con người hay cơ chế ở cấp dưới? Bà Phạm Chi Lan cho rằng, cả con người và cơ chế là nguyên nhân.

    Mọi vấn đề phải được xem xét theo trình tự, phân cấp. Dù đã phân cấp, nhưng lại phân công quá nhiều người tham gia vào việc đó. Nhiều bộ đưa ra hỏi ý kiến chung ở toàn cơ quan, quần chúng tín nhiệm người này nhưng cuối cùng phân công lại là người khác. Dù kêu gọi sự đóng góp của dân nhưng đóng góp không được tôn trọng, người ta không tin và tham gia nữa.

    Hiện nay, cơ chế của Việt Nam không rành mạch về phân cấp phân quyền. Nếu Thủ tướng, bộ trưởng, lãnh đạo tỉnh có quyền nhận thấy công chức làm sai thì sẽ khác. Hiện nay, dù thấy công chức sai nhưng lại cần tham vấn từ nhiều cơ quan. Một người quyết liệt nhưng nhiều người lại muốn dĩ hoà vi quý khó làm được.

    Theo bà Lan, vấn đề chính là cần xem xét thanh danh, uy tín chung của Nhà nước, không vì một vài cá nhân mà ảnh hưởng đến uy tín chung của cơ quan cầm quyền. Không cần cơ quan điều tra tìm ra chứng cứ, nếu là người bổ nhiệm, có thể đặt người ta ra bên ngoài bộ máy, thì lòng tin sẽ tăng.

    TS. Nguyễn Quang A khá bi quan với nhận định, cải cách hành chính mới chỉ dừng ở quyết tâm, cách làm chưa được để ý. Cải cách hành chính có bài bản của nó. Nếu có lập một ban hay cơ quan nào đấy thực sự lo chuyện này thì hay hơn, đầu tiên rà soát Nhà nước chỉ nên làm việc gì? Việc gì Nhà nước đang làm mà thực sự không nên làm thì phải chuyển giao cho xã hội dân sự và tư nhân? Xác định việc gì Nhà nước nhất định phải làm? Giải quyết như thế nào? Đầu tiên là phải phân quyền rõ ràng. Các bộ làm gì, địa phương làm gì. Khi phân quyền phải phân luôn trách nhiệm, không có chuyện bên trên can thiệp rất chi tiết. Có chuyện ở dưới không làm được, đẩy lên, thậm chí lên tới Thủ tướng. Ở trên cũng dứt khoát từ chối việc ở dưới đẩy lên, phân rõ chức năng mới tính chuyện làm như thế nào cho hợp lý. Từ đó, đào tạo lại đội ngũ công chức phù hợp với quy định mới. Nếu làm bài bản như vậy, cải thiện được thực tế, còn nếu không, khó giải quyết được bài bản.

    Các chuyên gia đều thống nhất, cải cách hành chính là công việc cấp thiết, dòng chảy liên tục, không ngừng nghỉ, ngay cả khi đã có được cơ chế và con người lý tưởng nhất.

    Quy hoạch đô thị: Chỉ cần học kinh nghiệm láng giềng

    Câu chuyện quy hoạch đô thị, bảo vệ môi trường là vấn đề nóng bỏng được xới lên tại buổi trực tuyến. Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng, lãng phí lớn nhất là lãng phí trí tuệ, chất xám. Một khi làm mà quy hoạch sai thì nhiều thế hệ gánh chịu. Ví dụ, chuyện úng lụt của TP.HCM, Hà Nội hay kẹt xe là chuyện đau đầu, hoàn toàn do lỗi quy hoạch. Dòng chảy tự nhiên nghiêng về phía biển, nếu xây dựng nhiều khu dân cư gần biển, cản trở dòng chảy tự nhiên, tất nhiên thành phố sẽ úng khi mưa.

    Nhìn ngay các khu đô thị xây dựng 10 năm trước gần trụ sở VietNamNet, có thể thấy tư duy đường ta rộng thênh thang 8 thước còn sâu lắm. Chuyện quy hoạch nóng bỏng, cần sự tham gia của nhiều người, có thể góp ý được điều gì đấy.

    Việt Nam có mật độ cao nhất thế giới, đất chật, người đông. Đáng lẽ, mặt bằng đất là tài sản quý phải sử dụng cho khéo. Nếu ta đứng cao, xa, nhìn dài hơn một chút, có thể tránh được nhiều trục trặc của bây giờ. Việc này không chỉ tốn kém nguồn lực tiền của đã đầu tư mà để sửa chữa mà còn cản trở chuyện phát triển tiếp theo.

    Theo bà Lan, điều cần chốt nhất là tầm nhìn xa hơn, dài hơn. Trước đây, chúng ta chỉ có kế hoạch 5 năm, chiến lược, quy hoạch 10 năm. Ngay việc đưa ra chiến lược biển 10 năm, nhưng thực tế Việt Nam chỉ có có chuỗi cảng biển lít nhít nhưng không có một cảng đủ lớn. Ta chưa đủ có đội ngũ có tầm nhìn tốt thì có thể học như các nước, mời chuyên gia quốc tế tư vấn. Trung Quốc mời chuyên gia Pháp sang quy hoạch lại Hải Nam, dùng quy hoạch cho nhiều năm sau. Việt Nam hoàn toàn có thể áp dụng bài học này, huy động chất xám bên ngoài.

    Chỉ dựa vào những người đang ngồi trên các ghế, được giao làm hiện nay mà không đủ trình độ, thế hệ sau sẽ phải dọn dẹp những gì mình để lại. Hiện nay, bản thân thế hệ chúng ta cũng đang phải dọn dẹp.

    Giáo sư Ngô Vĩnh Long tâm sự, là người nghiên cứu Á Đông, ông thường xuyên nhấn mạnh việc học bài học của Thái Lan, Trung Quốc. Theo ông Long, người quy hoạch đô thị, công trình không cần học đâu xa, chỉ cần học kinh nghiệm của các nước láng giềng.

    Từ trước đến nay, quy hoạch bị xem là bí mật quốc gia, của thành phố và bây giờ là bí mật của một nhóm nào đấy, ông Quang A phân tích. Quy hoạch có nhiều tầng. Ở tầng lớn, chỉ là định hướng, cần minh bạch những chuyện đó, để nhiều người có thể góp. Nếu không, bàn quy hoạch ở một số những người đang có quyền chức, họ quyết định mà người dân, kể cả giới chuyên môn không biết được bao nhiêu, mà giả sử có biết cũng chỉ nói vuốt đuôi vì đã được tầng nấc phê duyệt.

    Việt Nam cần thay đổi cách làm, cách đặt vấn đề. Hiện nay, dù Chính phủ nói lấy ý kiến nhân dân nhưng thực tế đã quyết định trước đó 5-7 tháng. Điều đó là không nên. Góp ý là một chuyện nhưng những người có quyền ra quyết định chính trị phải đưa quyết định, nhưng có rồi phải cho người dân biết để dựa vào đó mà làm việc. Sau quyết định, cần có phản ứng của giới chuyên môn mới mong có thể làm được điều gì đó tạo sự thay đổi.

    Theo bà Lan, hiện nay, các viện của Việt Nam đang nghiên cứu đề xuất chiến lược phát triển dài hạn. Theo bà, rất nên chiến lược được đưa ra cần được công bố rộng rãi, lắng nghe quan điểm của chuyên gia trong nước, nước ngoài, nhân dân, để có chiến lược thống nhất. "Quyết định rồi mới đưa ra hỏi ý kiến thì quá chậm".

    Trong chiến lược, theo bà Lan, cần nêu tầm nhìn dài hạn hơn là đưa ra con số cụ thể. Đưa ra con số cụ thể, Việt Nam dễ bị lệ thuộc, chạy theo nó. Nếu đạt được, có thể chỉ là thành tích ảo, phụ thuộc vào nó. Đồng thời, phải đặt Việt Nam trong bối cảnh khu vực và toàn cầu.

    Theo bà Phạm Chi Lan, riêng 2008, tại Hà Nội và TP. HCM, tất cả các dự án dư luận đang bức xúc các thành phố này dừng ngay lập tức, không tiếp tục. Ví dụ dự án biến Hồ Gươm thành một cái ao... vì sẽ là có tội với một quyết định sai lầm với lịch sử. Vấn đề dư luận có ý kiến phải quyết ngay. Hà Nội và TP.HCM cần học hỏi Đà Nẵng từ chối 2 dự án lớn vì có nguy cơ ảnh hưởng môi trường. Nếu làm sai thì cần phải trả lại như cũ, không để sự đã rồi và bỏ qua cho nhau.

    Chiến lược công nghệ quốc gia: Không thể ngồi dưới đất mà mơ tới trời

    Trước vấn đề bạn Đức Thắng, TP.HCM đặt ra về chiến lược công nghệ quốc gia, Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng, chiến lược công nghệ rất mông lung. Nhà nước không nên có một chiến lược như vậy, chỉ cần tạo điều kiện cho DN hoạt động một cách đỡ rắc rối, xoá các rào cản, tạo mọi điều kiện cho DN hoạt động.

    "Chính DN là người tạo ra hay hấp thu công nghệ, làm được cái gì mang đặc biệt của Việt Nam".

    Ví dụ, các trang trại cá không phải công nghệ Việt Nam mà của thế giới thay đổi hoàn toàn bộ mặt nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam. Việt Nam có tiềm năng để thay đổi như vậy. Nếu tạo điều kiện để DN, người dân có khả năng tích tụ tư bản, thậm chí cả về đất, vì muốn phát triển công nghệ cần đạt điểm tới hạn nào đó về quy mô, đủ sức tiếp thu, phát triển thêm công nghệ nội địa.

    Khi nào một ngành nào đó Việt Nam có thể chiếm lĩnh 10% thị trường thế giới, lúc đó may ra mới có chuyện một công nghệ nào đó của Việt Nam. Ví dụ chuyện nuôi trồng thuỷ sản, cà phê… còn đặt ra chỉ tiêu về công nghệ thì hơi viển vông. Công nghệ khó nói nó là cái gì.

    Chúng ta có thể đặt ra và hy vọng là có thể làm được cái gì, nhưng đừng đặt quá cao về một cái gì khó. Công nghệ là cái khó có thể lên kế hoạch. Định hướng chắc chắn là nên. Việt Nam cũng có những định hướng như khuyến khích phát triển công nghệ phần mềm. Nhưng liệu có tạo được cái gì đó không thì không dễ.

    Việt Nam dân số cao, nhưng GDP thì hiện vẫn là nền kinh tế nhỏ trên thế giới. Việt Nam không thể ngồi dưới đất mà mơ lên tới trời được, phải thực tiễn. Cách thực tiễn hay nhất là tạo điều kiện cho giới trẻ, khoa học, DN hoạt động suôn sẻ, có thể tạo ra điều gì đó đặc sắc cho Việt Nam.

    Theo GS. Ngô Vĩnh Long, hiện nay chưa thấy Việt Nam có công nghệ gì mà nước ngoài thấy đặc trưng của Việt Nam. Ví dụ, ngay cà phê nhiều hãng cà phê nước ngoài rất phát triển ở Việt Nam. Nếu so với Đài Loan những năm 1950, Việt Nam còn sa vào lạc quan trong lĩnh vực này. Hiện nay, Việt Nam chỉ cần mong có công nghệ chế biến tốt, khỏi bán hàng hoá Việt Nam ra bên ngoài giá rẻ.

    Cùng chia sẻ cảm nhận này, bà Chi Lan cho rằng, vấn đề của Việt Nam là làm sao ứng dụng công nghệ bên ngoài có, sáng tạo ra để nâng hiệu quả trong các lĩnh vực khác nhau của Việt Nam. Việt Nam cần tiếp tục học hỏi, tiếp thu những cái bên ngoài có.

    Trước mắt chưa ứng dụng nổi cái thế giới đã làm, làm sao có đột phá công nghệ riêng để nước ngoài học hỏi. Việt Nam có thể có bước đột phá riêng sau. Vào thời điểm này, cần phát huy cái đang có, phổ biến và nâng dần lên về mặt xã hội.

    Nhân cách dân tộc trong hội nhập: Câu chuyện cơ chế

    Trước những băn khoăn của độc giả Nguyễn Phú Vinh, Hoàng Văn Hải về tình trạng xói mòn đạo lý, nhân cách dân tộc trong bối cảnh hội nhập hiện nay, các chuyên gia đều quay trở lại với câu chuyện cơ chế.

    TS Nguyễn Quang A cho rằng, e sợ về mặt trái của hội nhâp có cái lý của nó. Nhưng trong hội nhập, dù việc giữ giá trị tốt của người dân Việt Nam rất quan trọng nhưng cũng cần thu nhận những giá trị tốt của thế giới vào. Có như thế mới phát triển được, không chỉ khư khư phát triển cái riêng của mình.

    Theo ông Quang A, bản thân việc cải cách hành chính cũng nhằm tạo dựng những điều đó. Mọi tranh chấp dân sự giải quyết rõ ràng, nhanh chóng, bộ máy có thể tạo niềm tin giữa con người, giữa các đối tác với nhau, chi phí giảm, hiệu quả tăng, bớt căng thẳng, cải thiện cuộc sống, bảo tồn và tạo ra các giá trị. Đó là một vòng tròn của cơ chế.

    Người ta kêu nhiều về sự băng hoại đạo đức nhưng nhiều cái do chính cơ chế gây ra.

    Chuyện phong bì… không phải lỗi của người A, B, C cụ thể, mà phải ngó lại thể chế, cơ chế, tìm cách sửa đổi những vấn đề đó. Nếu sửa được sẽ góp phần bảo tồn giá trị tốt, thu nhập những cái hay của bên ngoài.

    Bà Phạm Chi Lan cho rằng, Việt Nam không thể quá tự mãn với những gì chúng ta có mà phải không ngừng học hỏi ra bên ngoài.

    Nhiều cái đổ lỗi do cơ chế thị trường nhưng đó là cơ chế tự mình. Nhà nước thấy quan liêu, tham nhũng, lãng phí là vấn đề trong nước, xuất phát từ những người trong bộ máy.

    Việt Nam cần xem xét, quan tâm đến các giá trị cần thiết. Việt Nam có câu, "nà dột từ trên nóc dột xuống", "trên bất chính, dưới tất loạn". Cần phải giữ nghiêm minh từ trên xuống nếu muốn gìn giữ và phát triển nhân cách dân tộc.

    TS Nguyễn Quang A cho rằng, những vấn đề hiện nay hoàn toàn có thể thay đổi được, dù không đột ngột. Chúng ta có thể quay lại, nhìn ra trong cơ chế của chính mình tạo ra những khuyến khích ngược. Tại sao có bằng giả, học giả có bằng thật…? Chính vì những quy định của Nhà nước khuyến khích người ta làm chuyện đó. Muốn lên chức này thì nhất định phải có bằng này, khuyến khích việc làm xấu.

    Trong quản lý xã hội, ngó lại quy định của mình, thấy quy định nào khuyến khích người ta giả dối, khiến người ta làm ngược. Nếu hệ thống pháp luật nghiêm minh, tranh chấp dân sự, kinh tế giải quyết đường hoàng, lòng tin về tính chính trực con người được đảm bảo. Việc này sẽ giúp nhân lên giá trị dân tộc.

    Nếu cái gì cũng phải bôi trơn sẽ làm băng hoại nền đạo đức. Tác hại vô cùng với dân tộc. Đã đến lúc Việt Nam cần rung hồi chuông mạnh mẽ, cảnh báo sự sửa đổi.

    Trong 10 vấn đề được đặt ra, các chuyên gia cùng chia sẻ cách nhìn về ưu tiên số 1 cho năm 2008. Bà Phạm Chi Lan cho rằng, giáo dục đào tạo là trung tâm, tất nhiên gắn với sử dụng con người sau đó. Ông Quang A lại cho rằng cải cách hành chính quan trọng nhất, vì nếu làm được thực sự thổi vào không khí, cách làm ăn mới. Ngay trong mỗi DN, thay đổi, làm lại quy trình, sốc lại được. Việc này sẽ đẩy lại nhanh mọi thứ. Giáo sư Ngô Vĩnh Long tán thành quan điểm của ông Nguyễn Quang A và bổ sung, thể chế rất quan trọng. Thể chế không thay đổi thì khó giải quyết vấn đề khác.

    school@net (Theo http://vietnamnet.vn/chinhtri/2007/12/761201/)



     Bản để in  Lưu dạng file  Gửi tin qua email


    Những bài viết khác:



    Lên đầu trang

     
    CÔNG TY CÔNG NGHỆ TIN HỌC NHÀ TRƯỜNG
     
    Phòng 804 - Nhà 17T1 - Khu Trung Hoà Nhân Chính - Quận Cầu Giấy - Hà Nội
    Phone: 024.62511017 - 024.62511081
    Email: kinhdoanh@schoolnet.vn


    Bản quyền thông tin trên trang điện tử này thuộc về công ty School@net
    Ghi rõ nguồn www.vnschool.net khi bạn phát hành lại thông tin từ website này
    Site xây dựng trên cơ sở hệ thống NukeViet - phát triển từ PHP-Nuke, lưu hành theo giấy phép của GNU/GPL.