Tháng 2-2007 Eric A. Hanushek và Ludger Woòmann đã công bố một báo cáo nghiên cứu chính sách (Working Paper 4122) quan trọng cho Ngân hàng Thế giới. Bài này giới thiệu kết quả về ảnh hưởng của chất lượng giáo dục đến tăng trưởng kinh tế dựa trên báo cáo đó.
Một sự thật khá đơn giản, là những người có kỹ năng cao thường có thu nhập cao. Một quốc gia mà dân cư có kỹ năng nhận thức tốt là quốc gia giàu có. Đấy chính là kết luận quan trọng (và thật đơn giản) của nghiên cứu nói trên qua phân tích mối quan hệ giữa chất lượng giáo dục và tốc độ tăng trưởng kinh tế của hàng chục quốc gia và đôi khi trong thời gian khá dài (1960-2000). Họ thấy một mối quan hệ mạnh (mang tính nhân quả) giữa chất lượng giáo dục và tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Chất lượng giáo dục được đo bằng kỹ năng nhận thức (thí dụ qua điểm số đánh giá kỹ năng đọc, toán học hay khoa học của học sinh do Chương trình đánh giá học sinh quốc tế [PISA] tiến hành). Rất tiếc không có số liệu về Việt Nam, có lẽ chúng ta chưa tham gia. Học sinh có được kỹ năng nhận thức từ nhà trường, gia đình, bạn bè và xã hội, chứ không chỉ duy nhất từ nhà trường, tuy nhà trường đóng vai trò to lớn.
Các chiến lược phát triển quốc gia luôn đặt vấn đề giáo dục làm trung tâm, và đã rất chú ý đến các chỉ số như tỉ lệ người đi học, số trường, lớp, số học sinh trong một lớp, tỉ lệ giáo viên trên học sinh, v.v., tức là đến mặt "số lượng" mà chưa phân tích thấu đáo chất lượng giáo dục. Đạt mức cao về số lượng không đảm bảo sự cải thiện các điều kiện kinh tế là một kết luận đáng chú ý của nghiên cứu này. Tăng chi tiêu chưa chắc đã có kết quả, vấn đề là tính hiệu quả (chất lượng đạt được/số tiền đầu tư cho giáo dục). Tăng chi tiêu mà hệ thống thể chế giáo dục không thay đổi, thì hầu như chắc chắn không mang lại kết quả.
Những chính sách cải cách nào cải thiện chất lượng giáo dục? Không thể có một hệ thống giáo dục hoạt động tốt mà không có một cơ cấu thể chế phù hợp hỗ trợ. Các chính sách lớn có thể cải thiện đáng kể chất lượng giáo dục là:
- Sự lựa chọn và cạnh tranh.
- Phân quyền và sự tự trị của trường học.
- Trách nhiệm giải trình về kết quả.
Sự lựa chọn và cạnh tranh có nghĩa rằng cha mẹ học sinh có quyền chọn trường cho con em mình. Sức ép từ phía cầu này sẽ tạo ra những khuyến khích để nâng cao chất lượng, buộc các trường phải cạnh tranh với nhau. Khuyến khích các nhà đầu tư mở thêm các trường tư là một cách để tăng lựa chọn và cạnh tranh. Những quy định phân tuyến gây cản trở cho quyền tự do lựa chọn nên được bãi bỏ.
Nhà nước cấp phiếu (voucher) cho học sinh để đóng học phí cho trường mình chọn, là một công cụ tốt để đảm bảo sự lựa chọn và kích thích cạnh tranh (thay cho việc nhà nước rót tiền trực tiếp cho trường). So sánh quốc tế cho thấy học sinh các nước có tỉ lệ trường tư cao đạt chất lượng cao hơn.
Phân quyền và sự tự trị của trường là phân quyền quyết định cho các địa phương, các cộng đồng, cho các trường và kéo cha mẹ học sinh tham gia quyết định. Các trường được tự chủ trong những quyết định hàng ngày và quyết định nhân sự (kể cả lương, nhưng nhất thiết phải gắn với trách nhiệm giải trình, nếu không sẽ thất bại). Quy định thang bảng lương và cách xét lương hiện nay cho giáo viên không khuyến khích tăng chất lượng, và phải được thay đổi. Giáo viên giỏi phải được hưởng lương cao hơn.
Trách nhiệm giải trình của nhà trường về thành tích của học sinh có nghĩa là có hệ thống cung cấp thông tin đầy đủ, xác đáng về hoạt động, về chất lượng của trường. Các kỳ sát hạch, kiểm tra, thi do bên ngoài quy định (như thi tốt nghiệp hay đánh giá PISA chẳng hạn) là các công cụ tốt để có trách nhiệm giải trình. Không có trách nhiệm giải trình thì khó có thể có quyền lựa chọn thực sự và quyền tự trị của trường (nhất là về nhân sự và lương giáo viên) có thể gây tai hoạ.
Chưa có đo lường nghiêm túc về chất lượng giáo dục Việt Nam nên khó có thể đưa ra những kết luận xác đáng. Tại sao chúng ta chưa tham gia PISA là câu hỏi mà các nhà chức trách phải trả lời. Nếu soi hệ thống hiện hành của chúng ta trong tấm gương của ba chính sách nêu trên, thì có lẽ kết luận chắc hẳn là chất lượng giáo dục của chúng ta thấp.
Bàn về cải cách giáo dục có lẽ nên xem xét một cách thấu đáo các vấn đề hệ thống, thể chế, tính hiệu quả và chất lượng, chứ không chỉ chăm chăm đến số lượng mà điển hình là tăng chi tiêu, tăng học phí như hiện nay. Để cho công chúng nêu sáng kiến, bàn luận và góp ý kiến một cách rộng rãi, hơn là việc Bộ Giáo dục và Đào tạo soạn thảo để trình cấp cao hơn (như dự án tăng học phí) rồi sau đó mới để dân thảo luận. Quyết định rồi mới đưa ra thảo luận là hoàn toàn vô nghĩa. Theo những kết quả nghiên cứu nêu trên có lẽ các biện pháp cải cách dự tính sẽ khó mang lại kết quả mong đợi.
school@net (Theo http://www.laodong.com.vn/Home/skbl/2007/11/65583.laodong)
|