Từng giảng dạy tại Đại học Bách khoa Paris (Pháp), GS Pierre Darriulat là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu (CERN) - trung tâm nghiên cứu hạt nhân lớn nhất thế giới. Ông được giới chuyên môn đánh giá là một trong các nhà vật lý xuất sắc nhất thế giới trong vòng 30 năm trở lại đây.
Từ năm 1999 đến nay, GS Pierre Darriulat tự nguyện đến làm việc tại Việt Nam (hiện ông đang làm cố vấn khoa học của Viện Khoa học và Kỹ thuật Hạt nhân (thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ - KH&CN)). VietNamNetJobs đã có cuộc trao đổi với ông.
Giáo dục đại học của Việt Nam chưa hợp lý…
Làm việc nhiều với các nhà khoa học trẻ VN, ông có nhận xét gì về sinh viên VN cũng như việc đào tạo ở VN hiện nay?
- Sinh viên Việt Nam vẫn còn hay e dè, nhút nhát trước những cái mới và chưa thực sự cởi mở. Trình độ ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh lại không tốt. Không có ngoại ngữ sẽ là một trở ngại lớn cho việc tiếp cận với những tri thức khoa học mới của nước ngoài. Nhiều lúc, họ còn chưa thực sự tự tin vào bản thân mình. Việc e ngại khi nêu ra ý kiến riêng cũng là một trong những trở ngại của họ. Nhiều lúc, tôi thực sự kỳ vọng họ sẽ hỏi tôi thêm nhiều câu hỏi nữa. Nếu nói rằng đó là những vấn đề chung của người châu Á thì cũng không đúng. Tôi đã gặp nhiều sinh viên của Trung Quốc, Thái Lan..., những viên sinh đó luôn cho thấy tính cạnh tranh của họ rất cao và luôn sẵn sàng đặt câu hỏi đối với những vấn đề mà họ chưa thực sự am hiểu.
Việt Nam có một nền giáo dục ở bậc trung học khá tốt. Tuy nhiên, nền giáo dục đại học của các bạn chưa thực sự hợp lý, nhất là đối với những người nghiên cứu khoa học. Họ rất thiếu những kinh nghiệm thực tế. Những tri thức khoa học mà họ có phần lớn đều từ lý thuyết mà ít có điều kiện kiểm chứng bằng những thí nghiệm cụ thể.
Sau 7 năm sống và làm việc ở VN, điều quan trọng nhất mà ông đã thực hiện ở Việt Nam là gì?
- Ở đây có những nhà khoa học trẻ, họ cũng chính là các cộng sự của tôi. Tương lai của họ chính là tương lai của tôi. Nhiệm vụ chính của tôi là giúp họ có một tương lai thực sự, thông qua việc hướng dẫn và đào tạo các bạn ấy trong nghiên cứu. Nếu họ thành công tức là tôi đã thành công. Đây không phải là điều dễ dàng. Tuy nhiên, chúng tôi đã thành lập được một nhóm nghiên cứu gồm những bạn trẻ đang ngồi đây. Cũng có thể, chúng tôi sẽ liên kết với những trung tâm nghiên cứu lớn trên thế giới. Điều quan trọng nhất là chúng tôi có được sự tham gia của các bạn trẻ, những người rất đam mê khoa học cơ bản. Họ rất nhiệt tâm và có khát vọng, đồng thời cũng là những người có khả năng thích nghi nhanh.
Cần khắc phục nạn chảy máu chất xám
Kế hoạch sắp tới của ông tại VN là gì?
- Những gì tôi sắp làm cũng sẽ là giúp cho tương lai của những nhà khoa học trẻ ở đây. Thực sự tôi rất quan tâm đến họ và mong muốn họ sẽ có một tương lai thật tốt đẹp. Cho tới thời điểm này, VN vẫn chưa tận dụng được tối đa khả năng của các nhà khoa học trẻ. Bên cạnh đó, điều kiện làm việc ở đất nước các bạn cũng còn thiếu thốn. Để đất nước phát triển, cần phải đảm bảo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học trẻ, không chỉ riêng đối với một ngành khoa học nào. Tôi muốn nhấn mạnh rằng, tương lai của họ chính là tương lai của đất nước các bạn. Người dân VN rất tốt và có lẽ là thân thiện, dễ mến nhất so với những nước mà tôi đã từng đặt chân đến. Tôi thực sự yêu Việt Nam. Tôi cảm thấy hạnh phúc khi được giúp đỡ các bạn trẻ ở đây.
Ông có lời khuyên nào cho VN?
- Tôi thấy ở VN, đội ngũ cán bộ khoa học chưa có mức thu nhập xứng đáng hay ít nhất là đảm bảo cho họ yên tâm với cuộc sống đời thường để chuyên tâm vào nghiên cứu. Rất nhiều người trong số họ phải làm thêm các công việc khác để có thể trang trải cho những nhu cầu của cuộc sống. Và khi họ còn vướng mắc những công việc khác đó thì sẽ khó có thể có được những kết quả nghiên cứu như mong muốn.
Việt Nam cần phải thấy được vai trò của việc phát triển KH&CN cũng như phát triển nguồn nhân lực KH&CN. Có một điều mà các quốc gia đang phát triển (không riêng gì VN) đang phải đối mặt, là nạn chảy máu chất xám. Rất nhiều người phấn đấu để dành được một suất đi học hay đi nghiên cứu ở nước ngoài. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành các khoá học thì họ lại không trở về đất nước của mình mà ở lại các nước phát triển và tiếp tục sự nghiệp khoa học của họ. Điều này sẽ giúp cho các nước phát triển càng thêm phát triển, còn những quốc gia đang phát triển sẽ mất đi nguồn nhân lực có chất lượng.
Tôi nghĩ Việt Nam cần phải rất quan tâm đến chuyện này. Rất nhiều sinh viên chọn phương án đi du học ở nước ngoài nhưng đã có ai đặt ra câu hỏi có bao nhiêu phần trăm trong số đó quay trở lại phục vụ VN và làm thế nào để thu hút được những nhà khoa học trẻ đó quay về làm việc cho quê hương mình? Tôi biết đây không phải là điều dễ dàng và không thể giải quyết trong một sớm một chiều. Đấy chỉ là những suy nghĩ của cá nhân tôi.
Một lần nữa, tôi muốn nói rằng, tôi thực sự quan tâm đến những bạn trẻ ở đây và mong muốn Chính phủ VN cũng sẽ tạo điều kiện tốt nhất có thể cho họ và những nhà khoa học trẻ khác nữa. Điều quan trọng là để họ không bị ảnh hưởng tiêu cực bởi cơ chế thị trường. Các bạn cũng cần phải học hỏi những thành tựu khoa học của nước ngoài nhưng vẫn phải giữ được những bản sắc và thế mạnh riêng của mình. Các bạn cần phải biết lựa chọn những xu hướng, những công nghệ nào phù hợp với bối cảnh kinh tế và khoa học của riêng các bạn.
Xin cảm ơn ông!
Minh Hoàng (Theo http://vietnamnetjobs.com.vn)
|