Theo tài liệu Hội nghị quốc tế về giáo dục và đào tạo thế kỷ XXI: "Tầm nhìn và hành động" (từ ngày 5-9/10/1998 tại Paris do UNESCO tổ chức) đã đưa ra một hệ thống phân loại các mô hình giáo dục theo hướng phát triển:
Như vậy Việt Nam đang dần chuyển dịch từ mô hình truyền thống sang mô hình thông tin, mà trong mô hình thông tin công cụ chủ yếu là máy tính cá nhân và kết hợp với mạng LAN, WAN hoặc INTERNET.
Chương trình hoạt động của Asia and the Parcific Programme of Educationnal Innovation for Development (APEID) của UNESCO chuẩn bị cho giai đoạn 2002 - 2007 đã nhấn mạnh đến vấn đề sử dụng ICT để đổi mới giáo dục ( Information and Communication Technologies for Educational Innovations).
ở Việt Nam, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ra chỉ thị 29/2001/CT-BGD&ĐT, ngày 30/07/2001 về việc tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2001 - 2002, trong đó nhấn mạnh việc "... sử dụng CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập ở tất cả các môn học".
Như vậy việc sử dụng ICT hỗ trợ quá trình dạy học góp phần đổi mới nội dung, phương pháp dạy học đã được đặt ra và thực hiện trên phạm vi toàn thế giới.
Trong điều kiện thực tế của nhà trường phổ thông Việt Nam hiện nay, việc sử dụng công nghệ thông tin đang ở mức độ sử dụng máy tính cá nhân cùng các thiết bị ghép nối như ổ CD, loa, máy chiếu Projector, máy quét, máy in... và ở mức độ cao hơn là kết nối các máy tính PC thành một mạng cục bộ (LAN). Việc kết nối INTERNET đối với nhà trường phổ thông hiện nay chưa phổ cập (theo nghị quyết của Đảng, Chính phủ và Bộ GD &ĐT thì đến năm 2005 phải có 70 % số trường phổ thông kết nối INTERNET).
Vấn đề sử dụng CNTT trong việc Hỗ trợ dạy học bộ môn Toán
ở Việt Nam, theo GS.TSKH Nguyễn Bá Kim và TS Đào Thái Lai thì với tính cách là công cụ dạy học, MTĐT được khai thác dưới những hình thức chủ yếu sau:
+ Giáo viên trình bày bài giảng có sự hỗ trợ của MTĐT
+ Học sinh làm việc trực tiếp với MTĐT dưới sự hướng dẫn và kiểm soát chặt chẽ của thầy giáo.
+ Học sinh học tập độc lập trên MTĐT theo chương trình.
Theo tài liệu free NCET (1995) leaflet, Mathematics ang IT - apupil's entitlement, hai tác giả Sue Johnston - Wilder và David Pimm đã đưa 6 hướng chính sử dụng CNTT nhằm cung cấp các điều kiện cho người học toán, cụ thể:
* Học tập dựa trên thông tin ngược: Máy tính có khả năng cung cấp nhanh và chính xác các thông tin phản hồi dưới góc độ khách quan. Từ những thông tin phản hồi như vậy cho phép người học đưa ra sự ước đoán của mình và từ đó có thể thử nghiệm, thay đổi những ý tưởng của người học.
* Khả năng quan sát các mô hình: Với khả năng và tốc độ xử lý của máy tính điện tử giúp người học đưa ra nhiều ví dụ khi khám phá các vấn đề trong toán học. Máy tính sẽ trợ giúp người học quan sát, xử lý các mô hình từ đó đưa ra lời chứng minh trong trường hợp tổng quát.
* Phát hiện các mối quan hệ trong Toán học: Máy tính điện tử cho phép tính toán biểu bảng, xử lý đồ hoạ một cách chính xác và liên kết chúng lại với nhau. Việc cho thay đổi một vài thành phần và quan sát sự thay đổi trong các thành phần còn lại đã giúp người học phát hiện ra mối tương quan giữa các đại lượng.
* Thao tác với các hình động: Người học có thể sử dụng máy tính điện tử để biểu diễn các biểu đồ một cách sinh động. Việc đó đã giúp cho người học hình dung ra các hình hình học một cách tổng quát từ hình ảnh của máy tính.
* Khai thác tìm kiếm thông tin: Máy tính điện tử cho phép người sử dụng làm việc trực tiếp với các dữ liệu thực từ đó hình dung ra sự đa dạng của nó và sử dụng để phân tích hay làm sáng tỏ một vấn đề toán học.
* Dạy học với máy tính: Khi người học thiết kế thuật toán để sử dụng máy tính điện tử giúp tìm ra kết quả thì người học phải hoàn thành dãy các chỉ thị mệnh lệnh một cách rõ ràng, chính xác. Họ đã sắp đặt các suy nghĩa của mình cũng như các ý tưởng một cách rõ ràng.
Đồ thị trên máy tính là nét mới trong các lớp dạy học toán. Kenneth Ruthven bắt đầu lựa chọn, nghiên cứu và phát triển dự án sử dụng đồ hoạ của máy tính từ 1986 (Ruthven, 1990). Tuy nhiên khái niệm, ý định về một môi trường mà trong đó người sử dụng có thể thay đổi kích thước to nhỏ điều tra tìm hiểu sự giao nhau và độ dốc địa phương đã được phát triển ít lâu (David Tall đã sử dụng máy tính BBC). Tall trình bày con đường sử dụng đồ hoạ máy tính của ông để dạy học các phép tính từ đầu năm 1980. Phần mềm ' Hình ảnh máy tính' do ông phát triển lần đầu tiên cho máy tính BBC. Phần mềm này cho phép người học phóng to, thu nhỏ đồ thị với bất kỳ phạm vi nào từ đó hình thành khái niệm chẳng hạn gradient của đồ thị. Tall đã công bố một loạt các bài báo về sự quan hệ trong dạy toán ở tạp chí Mathematics Teaching, sau đó các bài báo được tập hợp lại trong một cuốn sách nhỏ (Tall,1987). Hơn nữa trong thời gian gần đây một vài người tương tự Tall ứng dụng bảng tính, đồ hoạ, các ý tưởng này được báo cáo trong Micromath (Morgan Jones & McLeay, 1996; Crawford, 1998; Morrison, 1998). Các công cụ đồ hoạ rất đa dạng, ví dụ
- Omnigraph là cả các đồ hoạ chạy trên máy PC và sử dụng trong nhiều trường Trung học cơ sở.
- Coypu được viết bởi Trung tâm giáo dục đào tạo toán trường Đại học Tổng hợp Nottingham, nguyên thuỷ chạy cho máy tính Acorn, nhưng đã phát triển cho máy PCs.
Trịnh Thanh Hải
|